Bạn đang xem bài viết Vai Trò Của Các Nguyên Tố Dinh Dưỡng: N được cập nhật mới nhất trên website Duhocaustralia.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Đạm (N):
Là chất cần thiết để giúp cây sinh trưởng, phát triển các mô sống, tạo diệp lục tố, nguyên sinh chất, axít nucleic và protein.
Làm tăng chất lượng của rau ăn lá, hạt ngũ cốc.
Khi thiếu đạm: cành lá sinh trưởng kém, còi cọc, ít nhánh, ít chồi, lá non nhỏ, lá già có màu xanh nhạt đến vàng từ chóp lá và dễ bị rụng, rễ ít pháp triển. Khi thiếu đạm trầm trọng năng suất thấp thu hoạch và hàm lượng protein thấp. Vàng từ lá già lên.
Khi thừa đạm: cây sinh trưởng rất mạnh, lá to, tán to, mềm yếu, dễ đổ ngã, dễ nhiễm sâu bệnh…
Lân (P):
Là chất cần thiết của quá trình trao đổi năng lượng, protein và phân chia tế bào của cây, là thành phần của axít nucleic, amino axít, protein phospho – lipid, coenzim, nhiễm sắc thể.
Lân kích thích rễ và ra hoa.
Khi thiếu lân: Cây còi cọc, thân yếu, lá mỏng, trưởng thành có màu xanh sẫm đến tím đỏ, rễ kém phát triển, khó ra hoa, ít trái, chín chậm, năng suất, chất lượng thấp, trái thường có vỏ dày, xốp.
Khi thừa lân: khó phát hiện hiện tượng thừa lân. Thừa lân thường kèm theo hiện tượng thiếu kẽm và đồng.
Kali (K):
Giúp tăng khả năng hoạt động của khí khổng, hoạt hoá enzim quang hợp và tổng hợp hydrat carbon. Giúp vận chuyển hydrat carbon, tổng hợp protein. Tăng cường khả năng sử dụng ánh sáng khi thời tiết lạnh và mây mù.
Có tác dụng nâng cao khả năng chống rét cho cây. Làm tăng độ lớn của hạt và cải thiện chất lượng rau quả.
Thiếu kali: chóp lá già chuyển màu vàng nâu, sau đó lan dần vào trong theo chiều từ chóp lá trở xuống, từ mép lá trở vào. Thiếu nặng, phần lớn lá bị cháy và rụng. Cây phát triển chậm và còi cọ,c thân yếu dễ bị đổ ngã.
Thừa kali: khó nhận biết, tuy nhiên khi bón nhiều kali trái cam bị sần sùi.
Thấu Hiểu Vai Trò Của Các Nguyên Tố Đa Lượng Đối Với Cây Trồng
Trong quá trình trưởng và phát triển, cây trồng luôn cần cung cấp đầy đủ các dưỡng chất cần thiết để khỏe mạnh, kháng lại sâu bệnh…cho năng suất và chất lượng cao.
Do đó việc bổ sung chất dinh dưỡng cho cây bằng bất kỳ loại phân nào hay hình thức nào cũng cần chú ý đến các yếu tố dinh dưỡng cần thiết. Trong đó, phân bón chứa các nhóm nguyên tố đa lượng được đánh giá giữ vai trò quan trọng nhất để bổ sung chất dinh dưỡng cho cây trồng. Tuy nhiên bón phân phải đúng liều đúng lượng thì mới có thể giúp cây tăng trưởng tốt. Do đó GFC chia sẽ thông tin về vai trò của phân bón có chứa các nguyên tố đa lượng để bà con biết cách chăm bón cho cây trồng.
Nhìn chung các nguyên tố đa lượng cung cấp các dưỡng chất để giúp cây trồng sinh trưởng, phát triển một cách toàn diện. Phân bón đa lượng có thể được sử dụng để bón lót hoặc bón thúc nhưng liều lượng và tỉ lệ các nguyên tố có thể khác nhau.
Nhóm này bao gồm các phân đạm (N), lân (P) và Kali (K), là dưỡng chất thiết yếu không thể thiếu cho cây trồng.
#1. Đạm: yếu tố chính quyết định năng suất và chất lượng nông sản
Đạm là yếu tố dinh dưỡng cần thiết trong quá trình sinh trưởng của cây. Tùy thuộc vào mỗi giai đoạn lượng phân này sẽ được sử dụng sao cho thích hợp lúc nhiều lúc ít. Nhưng nhu cầu cần đạm của cây lớn nhất là giai đoạn tăng trưởng, phát triển thân, cành, lá.
Vai trò lúc này của đạm là:
+ Tham gia vào quá trình hình thành các tế bào mô sống cho thực vật,
+ Tham gia vào quá trình quang hợp, làm tăng chất diệp lục cho cây
+ Tích lũy các chất dinh dưỡng cần thiết cho giai đoạn hình thành quả, hạt
Cây được bón đủ đạm sẽ tăng trưởng tốt, cành lá xanh tươi, đâm nhiều chồi, cành lá, lá có kích thước to xanh, quả phát triển nhiều, lá quang hợp mạnh do đó làm tăng năng suất
Nếu giai đoạn này, không cung cấp đủ đạm:
+ Làm cây trồng kém phát triển, sinh trưởng chậm, còi cọc
+ Chồi búp bị thui chột,
+ Chất diệp trên lá không được hình thành nên: các lá non thường nhỏ. Các lá già xuất hiện màu xanh sáng đến vàng nhạt, từ đỉnh xuống cuống, từ gân lá ra mép lá, rồi sau đó rụng đi.
+ Tỷ lệ ra hoa giảm nhiều, quả nhỏ, hàm lượng protein thấp, chất lượng nông sản giảm
Ngược lại, nếu bón quá nhiều đạm: không góp phần tăng năng suất mà còn làm tổn phí phân và làm ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng của cây.
+ Thừa đạm làm nước trong thân lá cao nên cây rất yếu, làm thân lá vươn dài, rợp bóng, mềm yếu ảnh hưởng đên quang hợp. Lá già thường rụng sớm
+ Dễ bị sâu bệnh tấn công do hàm lượng đạm hữu cơ trong cây bị hòa tan nhiều. Đồng thời tỷ lệ diệp lúc trong lá cao, lá có màu tối sẽ hấp dẫn công trùng cũng gây nên nhiều bệnh cho cây trồng.
+ Qúa trình sinh trưởng sinh dưỡng (phát triển thân lá) kéo dài, quá trình sinh trưởng sinh thực (ra hoa, kết trái) chậm lại
+ Đặc biệt, hàm lượng đạm dư trong rau xanh còn ảnh hưởng đến sức khỏe của người dùng: dư N ở dạng N03- sẽ vào dạ dày, ruột non và mạch máu chuyển hóa hemoglobin (của máu) thành dạng met – hemolobin làm mất khả năng vận chuyển oxy của tế bào. Còn nếu ở dạng NO2- chúng sẽ kết hợp với axit amin thứ cấp tạo thành chất Nitrosamine – là một chất gây ung thư rất mạnh. Các loại rau dư đạm cũng sẽ có vị nhạt thậm chí là đắng, tỷ lệ nước trong nông sản cao, khó bảo quản.
#2. Lân (P): quan trọng trong thời gian đầu gieo trồng và kích thích quả chín
Lân là thành phần của nhân tế bào, nên rất cần cho sự hình thành các bộ phận mới của cây. Cung cấp năng lượng cho các hoạt động sống của cây, thúc đẩy việc tổng hợp chất béo, protein trong cây
Khi bổ sung lân đúng lúc và đúng lượng:
+ Sẽ kích thích bộ rễ phát triển mạnh, ăn sâu lan rộng trong lòng đất để hút chất dinh dưỡng cần thiết cho cây, tăng khả năng chống chịu của cây trước các thời tiết khác nghiệt như hạn hán, lũ lụt…
+ Nếu đạm giúp cành lá phát triển nhanh và tươi tốt thì lân kích thích quá trình đẻ nhánh, nảy chồi, sự hình thành mầm hoa và phát triển quả non
+ Tăng khả năng chống chịu của cây trước các yếu tố thời tiết không thuận lợi như: chống rét, chống hạn, chịu độ chua cho đất
+ Tăng sức đề kháng cho cây trước một số bệnh gây hại…
Bổ sung đủ lân và cân đối với đạm cây sẽ phát triển xanh tốt, khỏe mạnh, hạn chế sâu bệnh phá hoại, nhiều hoa sai quả và tăng chất lượng nông sản.
Nếu bổ sung thiếu lân cho cây trồng sẽ có các biểu hiện:
+ Rễ phát triển kém, cây trở nên còi cọc
+ Lá non mỏng, lá già thu hẹp, ngắn, cứng không có độ bóng sáng, xỉn màu, nhiều cây có lá màu tím. Hiện tương này bắt đầu từ các lá phía dưới trước và từ mép lá vào trong.
+ Chồi non kém phát triển, quá trình đẻ nhánh và phân cành kém
+ Hoa quả ít, quả chậm chín, không có hạt, vỏ quả dày và xốp, dễ hư khó bảo quản
Không ảnh hưởng nhiều đến cây trồng vì P thuộc loại nguyên tố linh động, nó có khả năng vận chuyển từ cơ quan già sang cơ quan còn non.
Tuy nhiên thiếu lân sẽ kéo théo việc thiếu hụt kẽm (Zn), Sắt (Fe) và đồng (Cu)
#3. Kali (K): Tăng năng suất và chất lượng nông sản
Là nguyên tố giữ vai trò quan trọng trong việc chuyển hóa năng lượng trong quá trình đồng hóa cách chất trong cây trồng; xúc tiến quá trình quang hợp, tổng hợp hydrat cacbon và gluxit của cây. Nên Kali có tác dụng:
+ Qúa trình quang hợp diễn ra liên tục, hiệu suất quang hợp tăng cao
+ Tăng cường khả năng chống hạn cho cây: nhờ khả năng làm tăng áp suất thẩm thấu, giúp tăng khả năng hút nước của bộ rễ, điều khiển hoạt động đóng mở của khí khổng, giúp nước trong cây không bị mất mát quá lớn khi thời tiết khô hạn
+ Làm cho cây cứng chắc, ít đổ ngã: do các bó mạch, mô chống đỡ cây được phát triển đầy đủ
+ Tăng cường khả năng chịu úng, chịu hạn, chịu rét.
+ Tăng khả năng kháng bệnh
+ Tăng chất lượng nông sản và năng suất cho cây.
+ Làm tăng lượng đường trong quả làm cho màu sắc quả đẹp tươi, hương vị quả thơm và làm tăng khả năng bảo quản quả.
+ Làm tăng chất bột trong củ khoai, làm tăng lượng đường trong mía.
Kali cần thiết cho mọi loại cây trồng, nhưng quan trọng nhất đối với nhóm cây chứa nhiều đường hay tinh bột như lúa, ngô, mía, khoai tây … Bón K sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng N và P.
+ Cây phát triển chậm, còi cọc, thân yếu, dễ bị đổ
+ Lá hẹp, ngắn, xuất hiện các chấm đỏ, dễ héo rũ và khô. Nặng hơn xuất hiện tình trạng cháy lá và rụng đi
+ Làm tăng tỉ lệ hạt lép, quả nhỏ dễ bị nứt, vỏ quả dày và dễ bị rỗng ruột
+ Giảm chức năng chịu hạn và chịu rét của cây trồng
Thông thường các biểu hiện thiếu Kali thường xuất hiện trên lá sau khi nhu cầu này giảm đến 50% nên việc bón Kali để bù đắp lại lượng thiếu hụt là rất khó.
Biểu hiện thiếu kali có thể thấy là: Các lá già trở nên vàng sớm và bắt đầu từ bìa lá sau đó bìa lá và đầu lá có thể trở nên đốm vàng hoặc bạc, bìa lá chết và bị hủy hoại và lá có biểu hiện như bị rách.
Ở cây có múi làm quả trở nên sần sùi và ảnh hưởng đến quá trình hút canxi của cây.
Dư thừa ở mức thấp gây đối kháng ion, làm cây không hút được đầy đủ các chất dinh dưỡng khác như magie, natri v.v.., ở mức cao có thể làm tăng áp suất thẩm thấu của môi trường đất, ngăn cản sự hút nước và dinh dưỡng nói chung, ảnh hưởng xấu đến năng suất mùa màng
+ Tham gia vào quá trình tạo thành các tế bào thực vật và quá trình quang hợp.
+ Cung cấp dinh dưỡng để cây tăng trưởng, phát triển cành lá, giúp tăng năng suất
+ Rất cần cho sự hình thành các bộ phận mới của cây.
+ Kích thích bộ rễ phát triển mạnh, ăn sâu lan rộng trong lòng đất để hút chất dinh dưỡng cần thiết cho cây
+ Kích thích quá trình đẻ nhánh, nảy chồi và ra hoa tạo quả.
+ Tăng khả năng chống chịu của cây trước các yếu tố thời tiết không thuận lợi như: chống rét, chống hạn, chịu độ chua cho đất
+ Tăng sức đề kháng cho cây trước một số bệnh gây hại…
+ Làm tăng khả năng chống chịu của cây trước các tác động không thuận lợi bên ngoài.
+ Giúp cho cây ra nhiều nhánh, phân cành nhiều, lá ra nhiều.
+ Làm cho cây cứng chắc, ít đổ ngã,
+ Tăng cường khả năng chịu úng, chịu hạn, chịu rét.
+ Tăng khả năng kháng bệnh
+ Tăng chất lượng nông sản và năng suất cho cây.
+ Làm tăng lượng đường trong quả làm cho màu sắc quảđẹp tươi, hương vị quả thơm và làm tăng khả năng bảo quản quả.
+ Làm tăng chất bột trong củ khoai, làm tăng lượng đường trong mía.
+ Cây sinh trưởng chấm, yếu ớt
+ Qúa trình quang hợp kém, lá chuyển vàng nhanh, hoạt động quang hợp giảm gây giảm năng suất
+ Thân, cành yếu ớt.
+ Lá cây ban đầu có màu xanh đậm rồi nhanh chóng chuyển sang màu vàng. Hiện tương này bắt đầu từ các lá phí dưới trước và từ mép lá vào trong
+ Lá hẹp, ngắn, xuất hiện các chấm đỏ, dễ héo rũ và khô.
+ Lúa thiếu K sinh trưởng kém, trỗ sớm, chín sớm, nhiều hạt lép lửng, mép lá về phía đỉnh biến vàng.
+ Ngô thiếu K làm đốt ngắn, mép lá nhạt dần sau chuyển màu huyết dụ, lá có gợn sóng.
+ Thiếu K sẽ làm những chức năng chống chịu hạn, rét của cây trồng bị suy giảm đi.
+ Cây sinh trưởng mạnh nhưng thân cành yếu ớt rất dễ gãy và sâu bệnh tất cong
+ Ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người dùng
+ Nếu thừa lân không ảnh hưởng nhiều đến cây trồng vì P thuộc loại nguyên tố linh động, nó có khả năng vận chuyển từ cơ quan già sang cơ quan còn non.
13 Nguyên Tố Dinh Dưỡng Thiết Yếu Cho Cây Lúa
Từ lâu các nhà khoa học đã xác định được 13 nguyên tố dinh dưỡng được coi là thiết yếu cần được cung cấp qua phân bón cho cây trồng.
Dựa vào số lượng cây lúa cần sử dụng người ta chia các nguyên tố thiết yếu thành 3 nhóm: Đa lượng, trung lượng, vi lượng.
Nhóm nguyên tố dinh dưỡng cây cần nhiều được gọi là đa lượng gồm đạm (N), lân (P), kali (K), nhóm nguyên tố dinh dưỡng cây cần trung bình được gọi là trung lượng gồm có canxi (Ca), magie (Mg), silic (Si), lưu huỳnh (S), nhóm nguyên tố dinh dưỡng cây cần ít được gọi là vi lượng gồm có 6 nguyên tố: Sắt (Fe), kẽm (Zn), man gan (Mn), đồng (Cu), bo (B), mô líp đen (Mo).
– Vai trò của canxi: Canxi là một thành phần thiết yếu cấu tạo của tế bào, giúp cho sự hình thành và phát triển rễ, canxi làm tăng hoạt tính của một số men, trung hòa các axit hữu cơ trong cây giúp cho sự đồng hóa đạm nitrat và vận chuyển đường đến hạt của cây lúa, canxi còn giúp cho cây lúa chịu úng, khi bón canxi vào đất vai trò đầu tiên là làm giảm độc hại của Fe, Al.
– Vai trò của magie (Mg): Là thành phần cấu tạo diệp lục, nâng cao hiệu suất quang hợp, tổng hợp gluxit trong cây, tham gia vào nhiều loại men, hợp protein cho hạt, Mg giữ cho độ pH trong tế bào của cây ở phạm vi thích hợp, tạo điều kiện tốt cho các quá trình sinh học để tổng hợp dinh dưỡng.
– Vai trò của lưu huỳnh (S): Tham gia trong quá trình hình thành các axit amin, protein, xúc tiến nhiều quá trình sinh học trong cây như quang hợp, hô hấp, xúc tiến quá trình chín của hạt.
– Vai trò của silic (Si): Si khi phân tích trong cây lúa ta thấy, 1 tấn thóc cây lúa hút khoảng 15 – 20 kg N thì có đến 80 kg SiO2, như vậy cây lúa hút Si nhiều hơn gấp 4 lần đạm. Si có vai trò đặc biệt để hình thành lông, gai ở bẹ và thân lá lúa, làm tăng khả năng chống đổ ngã, chống sự thâm nhập của sâu bệnh.
– Vai trò của các nguyên tố vi lượng (Fe, Zn, Mn, Cu, B và Mo) các nguyên tố vi lượng có vai trò đặc biệt quan trọng tham gia vào hoạt động của các men để hình thành các vitamin, khoáng hòa tan, tổng hợp dinh dưỡng dự trữ vào hạt làm tăng hương vị, chất lượng cho hạt gạo, giảm gạo gẫy tăng độ bóng, độ trong của hạt gạo, tăng mùi thơm, tăng độ dẻo, tăng giá trị nông sản.
– Phân lân Văn Điển ngoài lân dễ tiêu (P2O5) = 16%, còn có hàm lượng các nguyên tố dinh dưỡng trung lượng là canxi 28 – 30%, magie 15 – 17%, silic 24 – 30% cùng các chất vi lượng: Sắt 4%, đồng 0,02%, kẽm 0,02%, bo 0,04%, mô líp đen 0,02% và mangan 0,02%.
Tổng hàm lượng các chất dinh dưỡng trung vi lượng lên đến 72% với cây lúa trên các loại đất không phải là đất phèn thì chỉ cần bón 400 – 500 kg/ha là thỏa mãn đủ lân, canxi, magie, silic và 6 chất vi lượng.
Còn trên đất phèn, phèn mặn thì lượng bón cao hơn từ 600 – 700 kg/ha, đã thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng cho cây lúa.
– Phân đa yếu tố (ĐYT) NPK Văn Điển ngoài 3 chất dinh dưỡng đa lượng NPK còn chứa 10 nguyên tố dinh dưỡng trung vi lượng: Canxi, magie, silic, lưu huỳnh, sắt, kẽm, đồng, bo, mô líp đen, mangan.
Gồm phân chuyên dùng bón lót trước khi cấy hoặc gieo sạ có các dòng sản phẩm: ĐYT NPK 5.10.3, ĐYT NPK 6.11.2, ĐYT NPK 10.12.5. Các loại này có hàm lượng dinh dưỡng trung vi lượng chiếm đến 48%, với lượng bón lót từ 700 – 800 kg/ha đối với ĐYT NPK 5.10.3 hoặc 6.11.2.
Hoặc bón 500 – 600 kg/ha đối với ĐYT NPK 10.12.5 là thỏa mãn tất cả các chất đa trung vi lượng cho cây lúa trong thời kỳ làm đòng.
Phân chuyên dùng bón thúc đẻ nhánh có các dòng sản phẩm ĐYT NPK 16.5.17, ĐYT NPK 12.8.12 chứa các chất trung vi lượng từ 22 – 40% tùy theo từng loại. Với định mức bón 360 – 400 kg/ha ĐYT NPK 16.5.17 hoặc bón 450 – 500 kg/ha ĐYT NPK 12.8.12 là cây lúa thỏa mãn tất cả nhu cầu dinh dưỡng để đẻ nhánh.
Thực tế nhiều năm qua cho thấy phân bón Văn Điển đã được bà con nông dân cả nước tin dùng và mang lại hiệu quả. Hạn chế dùng thuốc bảo vệ thực vật, giảm ô nhiễm môi trường, tăng năng suất, tăng chất lượng gạo, giảm chi phí đầu tư.
Phân đa yếu tố (ĐYT) NPK Văn Điển ngoài 3 chất dinh dưỡng đa lượng NPK còn chứa 10 nguyên tố dinh dưỡng trung vi lượng: Canxi, magie, silic, lưu huỳnh, sắt, kẽm, đồng, bo, mô líp đen, mangan.
↔ Bảng giá sản phẩm : https://vandienfmp.vn/bang-gia-phan-bon
↔ Liên hệ mua hàng : Đại Lý Bán Hàng
↔ Điện thoại : 023.688.4489, 023.688.5174 Fax: 023.688.4277
↔ E-mail : vandienfmp@gmail.com
↔ Liên hệ fanpage công ty : https://www.facebook.com/vandienfmp.vn/
Bài 4: Silic Và Vai Trò Dinh Dướng Với Cây Trồng
VAI TRÒ CỦA SILIC ĐỐI VỚI CÂY TRỒNG
1. Si TRONG ĐẤT
. Si tổng số
Trong vỏ quá đất, Si là nguyên tố phổ biến thứ 2 sau oxy, chiếm 25% khối lượng quả đất. Lượng SiO2 trong đất cát ít bị phong hóa có thể đến 90% nhưng trong những đất nhiệt đới bị phong hóa mạnh chỉ khoảng 20%. Nhìn chung lượng SiO2 chiếm khoảng 60 -90% trong đất. Si là thành phần chính cấu tạo nên đá và khoáng vật.
Nếu môi trường có phản acid chiếm ưu thế thì Si chuyển thành những axit silic tự do, dễ bị rửa trôi và di chuyển xuống dưới sâu. Vì vậy mà vỏ phong hóa nhiệt đới ẩm và đất nhiệt đới hình thành trên vỏ phong hóa này nghèo keo Si.
. Si hòa tan
Viện Ứng dụng Công nghệ, Chi nhánh Tp Hồ Chí Minh Nồng độ của H4SiO4 trong dung dịch phần lớn bị chi phối bởi phản ứng hấp phụ phụ thuộc vào pH trên bề mặt các secquioxit. Si bị hấp phụ trên bề mặt của oxit Fe và Al; sự hấp phụ giảm nhiều nhất ở pH 9,5. Tỷ lệ giữa lượng Si dễ chiết so với lượng secquioxit tự do hoặc dễ chiết dùng để ước lượng Si dễ tiêu trong đất. Tỷ lệ Si/Al hoặc Si/Fe càng lớn thì sự thu hút được Si bởi cây trồng càng nhiều. Khả năng hấp phụ của oxit Al giảm đáng kể khi sự kết tủa gia tăng. Trong đất chua nồng độ Si trong dung dịch đất có xu hướng cao hơn so với đất kiềm; việc bón vôi cho thấy làm giảm sự thu hút Si của một số cây trồng.
. Các yếu tố chính ảnh hưởng khả năng hữu dụng của Si
Ngưỡng tiêu chuẩn dùng đánh giá sự thiếu hụt Si trong đất là 40mg Si/kg (chiết bằng NaOAc 1M, pH 4). Một số yếu tố chính – thuộc tính chất đất và chế độ canh tác – có ảnh hưởng đối với khả năng hữu dụng của Si bao gồm: mức độ phong hóa, điều kiện ngập nước và chế độ bón phân.
– Ảnh hưởng của mức độ phong hóa: Mức độ hữu dụng của Si phụ thuộc nhiều vào tốc độ phong hóa phóng thích Si từ khoáng vật vào dung dịch đất. Trong khoáng vật bền với sự phong hóa như thạch anh, Si hoàn toàn không dễ tiêu cho cây. Sự mất mát Si trong đất phong háo mạnh mẽ sẽ làm giảm nồng độ Si hào tan và lượng Si cây hút. Sự tích lũy hàm lượng oxit sắt, nhôm tương đối và tuyệt đối làm giảm hàm lượng Si dễ tiêu cho cây.
– Chế độ bón phân: Bón vôi có thể làm giảm sự thu hút Si của một số loại cây như lúa, cao lương và mía.
– Điều kiện ngập nước: Trong quá trình ngập nước hàm lượng Si dễ tiêu tăng, đặc biệt trong đất chứa nhiều chất hữu cơ. Sự thu hút Si dễ dàng hơn khi hàm lượng nước trong đất cao, đặc biệt đối với lúa. Nồng độ Si hòa tan tăng theo thời gian ngập nước do nồng độ dạng thủy phân H2SiO4 gia tăng. Khả năng dễ tiêu của Si tăng lên thường đi cùng với sự gia tăng hàm lượng của các hydroxide Fe, Mn khử vô định hình trong đất ngập nước.
2. Si TRONG CÂY
2.1. Hàm lượng và Si trong cây
Hàm lượng Si trong cây phụ thuộc vào tuổi cây. Cây trưởng thành và lá già có hàm lượng Si cao hơn cây còn nhỏ và lá non. Cây trồng có thể được xếp vào nhóm cây tích lũy Si hoặc không tích lũy Si.
– Nhóm cây tích lũy Si: Bao gồm những loại sống ở đất ngập nước như cây lúa, các loại thuộc họ hòa thảo, chứa 10-15% SiO2 trong chất khô. Nhóm này cũng bao gồm những loại cây trồng cạn nhưng: ngủ cốc, mía và một số cây song tử diệp với hàm lượng Si trong cây thấp hơn (1-3% SiO2 trong chất khô).
Những loài cây có thể thích nghi cao ở đất liền cho đến biển như cỏ, tảo và họ hòa thảo đều là cây thuộc nhóm tích lũy Si. Tro của một số cây đơn tử diệp có thể chứa đến 90% SiO2.
– Nhóm cây không tích lũy Si: Gồm hầu hết các loại cây song tử diệp như cây họ đậu với ít hơn 0,5% SiO2 trong chất khô. Dạng silica vô định hình hiện diện trong cây là dạng silica gel (tức là một dạng của silica vô định hình được hydrate hóa, SiO2.n H2O, hoặc axit silica dược trùng hợp). Silica gel là dạng phổ biến nhất của Si trong cây, chiếm 90 – 95% Si tổng số trong cây. Ngoài ra: Si cũng hiện diện ở những dạng khác, Si trong nhựa cây ở dạng axit silic H4SiO4. Silic có thể được kết hợp với các thành phần của vách tế bào dạng silica hoặc có thể trong pectin. Phân tử của axit silic sẵn sàng kết hợp với nhiều chất (cả cá phân tử đơn giản như methemoglobin, albumin, collagen, gelatin, insulin, pepsin và lamirarin). Một phần silica trong cây được liên kết chặt trong cấu trúc của cellulose và chỉ có thể tách rời được sau khi cellulose bị phân hủy.
2.2. Cơ chế hút Si của cây
Trong dung dịch pH < 9, trong dung dịch đất và nước tự nhiên Si tồn tại ở dạng H4SiO4 (Mengel và Kirkby, 1987; Samuel và công sự, 1993), và đây là dạng Si cây hút. Sự thu hút Si của cây được giải thích theo hai cơ chế:
Thu hút một cách thụ động bằng quá trình thoát hơi nước của cây;
Thu hút có chọn lọc do sự chi phối của quá trình trao đổi chất.
Các nghiên cứu từ rất lâu cho rằng: Si được thu hút vào cây một cách thụ động, ít nhất là đối với các giống lúa trong nghiên cứu, do lượng Si cây hút thực tế rất thống nhất với số liệu Si được hút vào rễ tính toán từ nồng độ Si trong dung dịch đất và hệ số thoát hơi nước của cây. Axit silic cũng có thể được phân bố trong cây theo dòng chảy do sự thoát hơi nước của cây. Axit silic được cung cấp liên tục bởi sự hấp thụ qua rễ và sự tích lũy silica liên tục trong các bộ phận trên không, đặc biệt trong biểu bì, khi nước thoát ra bởi sự bốc hơi. Tuy nhiên, các tác giả cũng lưu ý rằng những loại cây có tỷ lệ silica trong chồi tương đối thấp phải có cơ chế để đẩy nó ra khỏi bề mặt rễ. Sự thu hút Si thụ động do dòng chảy khối lượng được tính toán từ hệ số thoát hơi nước và nồng độ Si trong dung dịch.
Mức độ ảnh hưởng của Silic đối với sinh trưởng của lúa
Bảng 1. Lượng Si thực tế cây hút và lượng Si vào rễ theo dòng chảy khối lượng của cây lúa, lúa mì và đậu nành trồng trong dung dịch dinh dưỡng với 3 mức nồng độ Si
Cây trồng Nồng độ Si trong dung dịch dinh dưỡng Hệ số thoát hơi nước Si cây hút thực tế Si cung cấp theo dòng chảy
Lúa mg Si/L L H2O/kg chất khô G SiO2/kg chất khô
0,75 286 10,9 0,2
30 246 94,5 7,4
162 248 124,0 40,2
Lúa mì 0,75 295 1,2 0,22
30 295 18,4 8,9
162 267 41,0 43,3
Đậu tương 0,75 197 0,2 0,15
30 197 1,7 5,9
162 197 4,0 31,9
Nguồn: Van Der Vorm, 1980.
Van der Vorm (1980 – trích dẫn bởi Mengel và Kirkby, 1987) cho rằng dù sự thu hút Si một cách thụ động hay được điều khiển bằng quá trình trao đổi chất dường như phụ thuộc vào loại cây và nồng độ của H4SiO4 ở bề mặt rễ. Số liệu trình bày trong bảng 1 cho thấy, đối với lúa, lượng Si cây hút thực tế cao hơn rất nhiều so với kết quả tính toán cho thấy có sự trao đổi chất tham gia vào quá trình thu hút Si của cây. Điều này càng rõ hơn trong trường hợp nồng độ Si trong dung dịch dinh dưỡng thấp. Hiện tượng tương tự xảy ra với lúa mì nhưng sự chênh lệch giữa số liệu cây hút thực tế so với số liệu tính toán út hơn trường hợp của cây lúa, ngoại trừ ở mức nồng độ cao nhất sự thu hút Si của cây dường như là thụ động. Đối với đậu nành, sự vận chuyển Si vào cây rõ ràng bị hạn chế, ngoại trừ trường hợp có nồng độ Si thấp nhất. Ở mức nồng độ Si trong dung dịch trung bình (30mg Si/L) có thể kết luận trong điều kiện đồng ruộng sự thu hút Si của cây lúa có tính chọn lọc cao, tương tự đối với lúa mì nhưng mức độ kém hơn nhiều và sự thu hút Si của đậu nành bị giới hạn. Do sự thu hút Si của cây lúa có tính chọn lọc nên nồng độ Si trong nhựa cây có thể cao hơn hàng trăm lần so với dung dịch bên ngoài.
Cây hút những lượng và tỷ lệ Si khác nhau tùy thuộc vào dạng và nồng độ của acid silicic hòa tan trong dung dịch canh tác. Ví dụ, cùng tỷ lệ của silica, lúa hút lơn hơn đậu từ 10-20 lần. Những cây trong cùng họ cũng thu hút Si với tỷ lệ khác nhau. Hàm lượng Si trong cây (tính trên % chất khô) tăng tỷ lệ với acid silicic hòa tan trong dung dịch đất, như thấy ở cây lúa, hướng dương và yến mạch.
2.3. Sự vận chuyển và phân bố Si trong cây
Cho dù silica gel được đông đặc hay tích tụ lại trong bộ phận nào đó của cây đều trở nên không linh động, vì vậy không thể là nguồn cung cấp Si cho các bộ phận khác trong cây nếu có sự thiếu hụt Si xảy ra trong các giai đoạn sau đó. Tương tự đối với Silica gel trong tảo, nó vẫn giữ nguyên trong các tế bào sống và chỉ bắt đầu phân hủy khi tế bào chết đi. Sự phân bố Si trong cây tùy thuộc vào loại cây và bộ phận của cây. Trong một số cây, Si được phân bố đồng thời khá đồng nhất giữa chồi và rễ, trong khi những cây khác nó có thể tích lũy trong chồi nhiều hơn trong rễ. Thỉnh thoảng, có trường hợp hàm lượng Si trong rễ cao hơn ở chồi. Đối với cà chua, hành, củ cải và bắp cải Trung Quốc có hàm lượng Si khá thấp, lượng Si trong rễ tương đương hoặc cao hơn trong chồi. Khi lượng Si tổng số trong cây cao, Si dường như tập trung nhiều ở các bộ phận trên không (lá, bẹ lá, đốt thân), thể hiện rõ ở cây lúa, cây yến mạch. Hàm lượng silica trong rễ cây yến mạch ít hơn 2% lượng silica của toàn cây. Vách tế bào của lớp biểu bì, ống mạch và sợi chứa nhiều silica (dạng được hydrate hóa nhiều). Trong lá, Si có trong biểu bì, bó mạch cùng với bao của bó mạch và cương mô. Trong bẹ lá và thân, Si chủ yếu có trong biểu bì phía ngoài, bó mạch và dọc theo vách tế bào nhu mô. Ngược lại với lá, Si được tìm thấy ở tất cả các bộ phận của rễ. Sự liên kết giữa silica với cellulose trong các tế bào biểu bì lá như sau: trên lớp biểu bì là một lớp silica, kế đó ở bên ngoài là lớp cutin mỏng. Lớp kép này, lớp silica và lớp cutin, có ý nghĩa rất lớn trong việc hạn chế sự thoát hơi nước không cần thiết qua lớp biểu bì, cũng như tác dụng bảo vệ chống lại sự xâm nhập của nấm bệnh. Theo Mengel và Kirkby (1987), sự phân bố Si trong cây phụ thuộc vào mức độ thoát hơi nước của các bộ phận khác nhau của cây.
2.4. Vai trò của Si đối với đời sống của cây
Si có ảnh hưởng lên sự tổng hợp lignin. Vách tế bào của rễ cây lúa mì không có Si cho thấy tỷ lệ lignin bị sụt giảm trong khi đó tỷ lệ các phenolic gia tăng (Jones và công sự, 1978). Si đóng vai trò như chất dinh dưỡng có tác dụng tăng cường sự sinh trưởng, cải thiện năng suất cây trồng và chất lượng nông sản. Tùy trường hợp, Si có thể được đánh giá là có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự sinh trưởng và năng suất cây trồng, hoặc không ảnh hưởng.(còn nữa)
Sưu tầm và biên tập Ks Lê Minh Giang/Ms.Linh; Mr.Quang
Cập nhật thông tin chi tiết về Vai Trò Của Các Nguyên Tố Dinh Dưỡng: N trên website Duhocaustralia.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!