Xem Video Trong Rau Sach / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Duhocaustralia.edu.vn

Trồng Rau Sạch Ở Hội An, Trong Rau Sach O Hoi An

Xưa nay, Trà Quế (Hội An, Quảng Nam) vẫn nổi tiếng như một làng nghề cung cấp nhiều loại rau sạch, đặc biệt là rau thơm cho Hội An và các địa phương lân cận. Không chỉ giữ được nghề trồng rau sạch lâu đời, Trà Quế ngày nay còn là một trong những địa phương triển khai được nhiều tour du lịch hấp dẫn nhất ở Hội An.

Xưa nay, Trà Quế (Hội An, Quảng Nam) vẫn nổi tiếng như một làng nghề cung cấp nhiều loại rau sạch, đặc biệt là rau thơm cho Hội An và các địa phương lân cận. Không chỉ giữ được nghề trồng rau sạch lâu đời, Trà Quế ngày nay còn là một trong những địa phương triển khai được nhiều tour du lịch hấp dẫn nhất ở Hội An. Với những sản phẩm rau xà lách, diếp cá, răm, húng, quế, hành, ngò…thường có mặt trong các món ăn đặc sản Quảng Nam như cao lầu, mì Quảng, tôm hữu, thịt heo cuốn bánh tráng, bánh xèo, bê thui…

Cả làng hiện có khoảng 100 hộ gia đình trồng rau trên diện tích 40 ha với gần 30 loại rau các loại được thu hoạch theo mùa. Một trong những điểm đặc biệt của làng Trà Quế là rau ở đây được gieo trồng theo cách tự nhiên, rất sạch. Bà Lê Thị Bình cho biết: Ở đây không bao giờ dùng thuốc tăng trưởng mà chỉ dùng rong dưới sông là chính. Đem rau ở nơi khác về đây trồng thì rau cũng thơm hơn trước.

Với diện tích đất trồng rau chỉ khoảng vài chục hécta nhưng trồng rau đã trở thành một nghề chính của cư dân trong làng qua nhiều thế hệ. Kể từ khi du lịch Hội An bắt đầu khởi sắc, cũng là lúc làng rau phát triển thịnh vượng nhất. Ngoài việc trồng rau để phục cho các nhà hàng, khách sạn và các chợ đầu mối trên địa bàn Quảng Nam, Đà Nẵng với doanh thu hàng tỷ đồng mỗi năm, người dân Trà Quế cũng tham gia vào các hoạt động du lịch. Đến với làng quê thôn dân dã này, du khách sẽ được hướng dẫn cuốn đất, vun luống, bón phân, gieo hạt, trồng rau và học chế biến các món ăn từ sản phẩm rau tại làng nghề như những người nông dân thực sự.

Du khách sẽ được nghe người dân nơi đây tự hào kể về những bí quyết khiến rau ở đây có vị đặc trưng hơn bất cứ nơi đâu. Anh Hồ Xuân Thành, một người dân nói: Rau này có hương thơm mà các vùng khác không có do vị trí địa lý kết hợp với nguồn đất tự nhiên và rong, tảo từ con sông Cổ Cò. Rau ở đây nhỏ nhưng mùi hương, tinh dầu rất cao. Nếu cùng mang một giống rau ra khỏi làng này đi làng khách trồng thì không còn được vị như thế.

Nhờ hương vị đặc biệt ấy mà rau Trà Quế đã góp phần tạo nên các món ăn dân dã chỉ có riêng tại Hội An. Rau hành, ngò thì kết hợp với món gỏi sứa, canh chua; cải bằng, ngổ điếc… dùng để nấu lẩu; rau răm, húng, hành lá dùng trong món hến trộn khoái khẩu ở vùng Cẩm Nam. Còn món mì Quảng thì phải ăn với rau sống Trà Quế mới thấy được cái hương vị rất riêng. Rau xanh Trà Quế trước hết phải “sạch” từ khâu chọn đất và hệ thống nước tưới không bị ô nhiễm. Đất được tăng độ mùn và tơi xốp bằng các loại phân chuồng để hoai, phân vi sinh chế biến từ thảo mục.

Bà Nguyễn Thị Lự, bật mí bí quyết: Cách trồng và chăm sóc truyền thống được người làng rau Trà Quế áp dụng với tiến bộ khoa học kỹ thuật để sản xuất rau sạch theo quy trình khép kín. Nhờ vậy mà không ảnh hưởng đến môi trường, đến người trồng rau và đặc biệt là không ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng.

Ông Nguyễn Văn Dũng- Phó chủ tịch UBND TP. Hội An cho biết, từ 2004 đến nay Hội An đã đầu tư 3 tỷ đồng cho làng rau Trà Quế. Bởi đây là một trong những thương hiệu rau có từ ngàn xưa. Đây không phải là vấn đề khai thác mà là giữ gìn văn hóa truyền thống của cha ông để lại”.

Mới đây, Làng rau Trà Quế – Hội An vừa chính thức đăng ký bảo hộ nhãn hiệu độc quyền với Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam qua thương hiệu “Trà Quế – Hội An”. Làng rau này đã được ngành chức năng cấp Giấy chứng nhận rau an toàn cho nhân dân và tập thể. Thạc sĩ Nguyễn Thị Minh Lý – PGĐ Trung tâm chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn (Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng) nhận xét: Làng rau Trà Quế có ưu điểm về nguồn nước, môi trường, phân bón tự nhiên, cách ly KCN nên đáp ứng các yêu cầu về an toàn chất lượng và du lịch.

Để phòng ngừa sâu bệnh cũng như giúp các loại rau phát triển nhanh hơn, bà con có thể tham khảo sản phẩm Chế Phẩm Sinh Học Vườn Sinh Thái Cho Rau sản phẩm đã được cấp phép lưu hàng từ 2006.

 

Cách Trồng Cây Lô Hội (Kèm Video)

Nếu bạn có những cây mọng nước hình thành cụm, hướng dẫn thông tin này về ” Cách trồng lại cây lô hội ” sẽ giúp bạn phân chia, nhân giống và thay chậu!

Thời điểm Tốt nhất để chuyển chậu là gì?

Theo nguyên tắc chung, bạn nên đợi cho đến khi ‘cây con’ (cành nhánh) dài 8 – 10 cm, hoặc ít nhất là 1/5 kích thước của cây chính. Chúng cũng nên có ít nhất ba đến năm lá để giúp cây khỏe mạnh khi tách trồng riêng. Cây con chưa trưởng thành không chịu được sự khắc nghiệt của việc làm lại bầu và bị chết.

1 . Nhẹ nhàng lấy cây ra khỏi chậu và kiểm tra bộ rễ của nó. Tiếp tục kiểm tra cho đến khi bạn tìm thấy các vị trí gắn kết giữa cây mẹ và các cây con. Mạng lưới rễ dày thắt chặt đó là mục tiêu của bạn. Những gì bạn cần làm là tách các cây ‘con’ riêng lẻ bằng cách cắt bỏ rễ tương ứng của chúng, đồng thời đảm bảo rằng mỗi cây cấy ghép giữ lại một phần nhỏ của rễ.

2. Rũ sạch bụi bẩn và bắt đầu đào cây từ khối đã được ủ. Nếu cây lô hội của bạn đã phát triển tốt và già, hãy cho rằng nó còn rễ. Trong trường hợp đó, đừng ngần ngại sử dụng một con dao sạch trên đó. Bạn cũng sẽ phải sử dụng bay để đến vị trí mà bạn có thể bắt đầu tách các nhánh.

Các cây con sẽ có kích thước khác nhau. Sau khi lấy chúng khỏi cây mẹ, hãy lau sạch bụi bẩn trên thân cây. Chúng có thể tiết ra một số gel, nhưng điều đó tốt. Cuối cùng, bạn sẽ chỉ còn lại cây mẹ, có thể trồng lại ở đâu đó hoặc chỉ cần thay chậu vào thùng trước đó.

Trước khi trồng lại, bạn có thể để rễ lành ở chỗ sáng và khô trong vài ngày, quá trình này sẽ bảo vệ cây khỏi bị nhiễm bệnh (bước này là không bắt buộc). Có thể trồng hai ba cây lô hội nhỏ hơn cùng nhau trong các chậu dài 12cm. Chọn hỗn hợp đất trồng có sẵn cho các loài xương rồng. Ngoài ra, thêm cát hoặc đá trân châu vào đất cũng là một ý kiến ​​hay, đặc biệt là khi bạn đang sử dụng đất bầu tiêu chuẩn.

5.

Sử dụng cả hai tay, đặt cây vào các chậu đã chuẩn bị sẵn, đặt chúng ngay trung tâm nếu là một cây hoặc đặt chúng cách đều nhau, nếu chậu rộng. Đổ thêm đất để che phủ và làm chắc nó bằng tay hoặc bay để bịt kín các lỗ hổng.

6. Ngay sau khi bạn trồng chúng, hãy để những chậu cây mới trồng ở nơi râm mát và nhận được ánh nắng dịu nhẹ để chúng có thời gian phục hồi trong vài tuần. Cây lô hội có thể được giữ trong ánh nắng mặt trời đầy đủ.

Không tưới cây trong vài ngày sau khi trồng và sau đó ngâm chúng thật kỹ. Sau đó, tưới ít, 2-3 tuần một lần. Tuy nhiên, ở vùng nhiệt đới, bạn có thể tưới một lần trong một tuần.

Xem Ngay 30 Cây Ăn Quả Trồng Chậu Dễ Trồng Trong Vườn Nhà Phố

Có đa dạng dòng các loại cây ăn quả trồng trong chậu mà vẫn ra hoa ra quả, đó là do cây ăn quả được nhân giống bằng phương pháp chiết cành nên cây với bộ rễ ăn nông mà vẫn cho ra trái sớm (thường cho trái sau 1 năm trồng trong chậu)

Cây ăn trái trồng trong chậu cần để nơi với gần như ánh sáng (tốt nhất là ánh sáng vào buổi sáng) cây mới với trái, do cây trong chậu phải tưới đẫm nhiều nước và kê dưới đáy chậu giúp thoát nước tốt.

Mít thái siêu sớm là giống mít ngoại được du nhập vào Việt Nam qua con đường xách tay được trồng từ vài năm nay với ưu điểm thời gian cho thu hoạch nhanh chỉ từ 12 đến 15 tháng sau khi trồng, múi mít mọng và giòn ngọt, và là cây trồng cây ăn quả trong thùng xốp và trồng chậu rất hợp lý.

Sung là loại cây trồng làm cảnh phố biến nhưng ta vẫn có thể tận dụng cả lá và quả. Nếu ăn các loại nem chua, nem nắm mà thiếu sung hẳn sẽ mất ngon.

Trong khi đó, quả sung có thể ăn sống hoặc muối chua.

Bơ là loại quả tốt cho sức khỏe. Ăn bơ giúp giảm nguy cơ bệnh tim, tiểu đường và béo phì, hỗ trợ giảm cân, tăng năng lượng, tốt cho mái tóc và làn da

Thay vì bỏ tiền túi ra để mua bơ ăn, việc tự trồng một vài cây bơ tại nhà giúp bạn tiện đôi đường khi vừa có cây nhỏ xinh làm cảnh. vừa có quả để ăn.

Cây ổi không chỉ là loại trái cây ngon. phổ biến của người Việt mà còn có rất nhiều công dụng, làm đẹp da, ngừa cao huyết áp, giảm ho… Đây là lựa chọn tuyệt vời cho ai muốn sở hữu cây ăn quả trồng trong nhà và là cây ăn quả dễ trồng nhất cho bạn tham khảo và trồng

Có nhiều loại như ổi Đài Loan, ổi tím, ổi Nhật, ổi không hạt… Cây ổi nói chung hầu như không kén đất, tuy nhiên do trồng trong chậu nên cần lưu ý chọn đất trồng tơi xốp thoát nước tốt.

Chuối không chỉ mang đến cho người trồng loại quả giàu chất dinh dưỡng mà còn là loại cây có tính trang trí cao. Chuối là loại cây nhiệt đới nên đa dạng, nhiệt và độ ẩm.

Là một trong những loại quả có giá trị dinh dưỡng cao, giá bán đắt và thường phải nhập ngoại với giá tiền triệu, việt quất kiến nhiều người trồng rât ưu thích.

Lựu không chỉ là loại trái cây yêu thích của nhiều người mà việc trồng cây lựu trong chậu còn có tác dụng làm cảnh trong là và mang lại nhiều ý nghĩa phong thủy.

Cây lựu trong chậu

“Bí kíp” trồng cây lựu trong trậu rất đơn giản, chỉ cần bạn dành chút thời gian mỗi ngày để quan tâm tới việc tưới tắm, ánh sáng, bón phân hữu cơ đầy đủ thì sẽ sớm được thu được thành quả là những trái lựu dỏ xỉnh rực rỡ.

Cóc thái có vị chua, giòn, mềm, nhất là cúc non. Cây bé, dễ trồng trong chậu ngay tại nhà và là cây ăn quả trồng trên sân thượng rất hợp lý cho bạn tham khảo.

Na là loại cây ăn quả được trồng nhiều trên khắp cá vùng miền nước ta, quả na có vị rất ngọt, có thể dùng làm sinh tố. Na có chứa nhiều Vitamin C rất hữu ích cho cơ thể.

Phép Xem Mạng Gà Theo Kê Kinh

Mọi người đều biết rằng kết quả thi đấu ngày nay hầu như phụ thuộc vào bổn bang và chế độ nuôi dưỡng. Nhưng một khi bổn bang và chế độ nuôi dưỡng là như nhau, mà điều này vốn là xu hướng chung, thì màu mạng chính là yếu tố tạo nên sự khác biệt. Chẳng hạn, ba mươi năm trước, chỉ một số ít sư kê ở Philippines sở hữu gà đá Mỹ nòi xịn, ngày nay thì hầu hết sư kê đều có thể tiếp cận những dòng gà danh tiếng này, bởi có rất nhiều trại gà cạnh tranh lẫn nhau để cung cấp gà đá chất lượng cho thị trường. Bổn bang tuy cực kỳ quan trọng nhưng nếu ai cũng có thì không thể lấy đó làm lợi thế. Các phương pháp biệt dưỡng và ốp cũng vậy, đa phần những sư kê nghiêm túc đều coi trọng và nắm vững cách thực hiện những công đoạn này. Bởi vậy, việc thành bại đôi khi lại do những yếu tố rất nhỏ quyết định. Chúng ta có thể coi phép xem màu mạng là một trong những yếu tố như vậy.

Phép này vốn được lưu truyền trong dân gian. Một điều chắc chắn là nó đã xuất hiện từ rất lâu vì gắn liền với một học thuyết cổ xưa: “thuyết Ngũ Hành”. Ngày nay, vẫn còn rất nhiều sư kê tin tưởng và áp dụng phép này vào các trận đá gà. Nó bao gồm nhiều yếu tố vốn không thể “định lượng”, điều dẫn đến khó khăn trong việc phân tích và đối chiếu. Bởi vậy mà có nhiều biến thể hay còn gọi là “môn phái” màu mạng khác nhau ra đời, mỗi “môn phái” lại sử dụng một tập hợp các yếu tố khác nhau. Trong phạm vi bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu phép xem màu mạng theo Kê kinh, một trong những tài liệu xưa nhất về chủ đề gà chọi xuất hiện cách nay hơn một thế kỷ.

Về nguồn gốc của Kê kinh, chúng ta không có thông tin nào khác ngoài mấy chữ “sách gà Phạm Công”. Tất cả những gì mà chúng ta biết ngày nay đều qua bản dịch nôm Kê kinh diễn nghĩa dạng thơ lục bát của Giao-hòa, lão-nhiêu Nguyễn Phụng Lãm. Bài được đăng trên báo Nông-cổ mín-đàm vào năm 1902. Điều dẫn đến suy đoán rằng sách được viết bằng chữ Hán hoặc Hán-Nôm. Bảo bản dịch là Kê kinh cũng được mà bảo không phải cũng được bởi chúng ta chỉ thấy ý chứ không hề thấy hình. Có quan điểm cho rằng tác giả Kê kinh là Tả Quân Lê Văn Duyệt (1763-1832). Tương truyền, Đức Ngài rất ham mê môn chọi gà và nuôi đến hàng ngàn chiến kê để nghiên cứu các phép xem tướng, xem vảy và đặc biệt là màu mạng gà. Tựu trung, nội dung của phép xem màu mạng này bao gồm bốn phần:

*Phân tích sắc lông chiến kê cùng với hành tương ứng. *Sinh khắc của màu lông. *Sinh khắc theo mùa (tứ thời sinh khắc). *Sinh khắc theo ngày (nhật thần sinh khắc).

Màu lông

Kim=gà nhạn Mộc=gà xám Thủy=gà ô Hỏa=gà điều, gà tía Thổ=gà ó vàng

*Hành mộc có màu xanh, nhiều người thắc mắc tại sao lại xếp gà xám vào hành mộc? Nếu quan sát kỹ màu xám có ánh xanh, người phương Tây nhận ra điều này nên họ gọi là “blue” thay vì “grey”. Có lẽ vì vậy mà gà xám được xếp vào hành mộc. Gà “grey” là gà chuối, đặc biệt là những con mà hắc sắc tố lan đến lông bờm và lông mã gọi là “chuối tro”. Đấy là màu xám thuần túy không lẫn sắc xanh.

*Màu vàng có khi được xếp vào hành kim, màu nâu được xếp vào hành thổ nhưng Kê kinhlại xếp màu vàng vào hành thổ, ở đây chúng ta sẽ xem màu nâu như là “đỏ pha đen” tức “hỏa pha thủy”. Chẳng hạn tía bịp (điều mật) ngả tông nâu, hành chính vẫn là hỏa, nhưng pha thủy.

*Tên gọi đôi khi không phản ánh đúng thực chất, chẳng hạn gà “điều” hay “tía” có nhiều tông màu khác nhau từ đỏ, cam cho đến vàng. Nếu ngả sang tông vàng thì nên xếp vào hành thổ (thay vì hành hỏa). Hoặc gà khét điều hành hỏa, nhưng khét vàng lại là hành thổ.

*Kê kinh viết “Cứ theo sắc chánh mà suy”, nếu gà có nhiều màu khác nhau thì dựa vào màu chính mà xem hành. Màu chính là màu ở thân và cánh, những màu ở đuôi, lông mã, lông bờm là phụ (gà chọi xưa có ít lông bờm). Những hoa văn như lau (đuôi và cánh lẫn màu trắng), bông, nổ (đốm trắng), cú (vạch) cũng là phụ.

Giả như xám trổ mã vàng, Thiệt là sắc mộc màu vàng kể chi. Bông nổ mã ô đen sì, Màu thời chẳng kể, kể thì thủy ô. Như vàng mã chuối trỏ vô, Kể là sắc thổ chuối dò làm chi.

*Màu tía (điều) là một ngoại lệ. Màu tía điển hình có lông bờm, lông mã và một phần của vai, cánh màu đỏ, trong khi thân và đuôi màu đen. Nếu bám sát định nghĩa ở trên thì màu tía thuộc hành thủy bởi thân màu đen, chỉ có gà khét mới đúng là hành hỏa. Đây là điểm mâu thuẫn củaKê kinh, bằng không gà tía (điều) trong bài này ám chỉ đến “gà khét” chứ không như cách mà chúng ta hiểu ngày nay.

*Có sách gà viết “gà có đủ năm màu tương ứng với ngũ hành là gà ngũ sắc, gà ngũ sắc không theo mạng”. Kê kinh không đề cập gì đến việc này mà chỉ nói lấy sắc chính làm đại diện.

Ngũ hành luận

*Tương sinh: nghĩa là hỗ trợ, giúp đỡ, kim–>thủy, thủy–>mộc, mộc–>hỏa, hỏa–>thổ, thổ–>kim, đi giáp một vòng, các hành sinh lẫn nhau. *Tương khắc: là cản trở, khắc chế, kim> mộc, mộc>thổ, thổ>thủy, thủy>hỏa, hỏa>kim, các hành khắc lẫn nhau, không hành nào là vô địch. *Tương hòa: là bình hòa, không hỗ trợ hoặc cản trở, kim~kim, mộc~mộc, thủy~thủy, hỏa~hỏa, thổ~thổ. *Tương thừa: hàm ý “thừa thế lấn áp”, chẳng hạn “mộc khắc thổ”, nếu mộc quá mạnh hoặc thổ quá suy thì gọi là “mộc thừa thổ”. *Tương vũ: hàm ý “khinh nhờn”, chẳng hạn “thủy khắc hỏa”, nếu hỏa quá mạnh hoặc thủy quá suy thì gọi là “hỏa vũ thủy”.

Quan hệ biện chứng *Tương sinh lại chia ra làm “sinh nhập” và “sinh xuất”; sinh nhập = kẻ khác hỗ trợ mình nhờ vậy gia tăng công lực; “sinh xuất” = mình hỗ trợ cho kẻ khác nên bị hao tổn công lực. Ví dụ: “mộc sinh hỏa” thì mộc là “sinh xuất”, hỏa là “sinh nhập”, mộc hao tổn công lực trong khi hỏa tăng thêm công lực. *Tương khắc cũng chia làm “khắc nhập” và “khắc xuất”; “khắc nhập” = bị kẻ khác khắc chế; “khắc xuất” = khắc chế kẻ khác. Ví dụ: “thổ khắc thủy” thì thổ là “khắc xuất”, thủy là “khắc nhập”, thổ đè nén thủy, thủy không phát huy được.

Sinh khắc của màu lông

*Nhạn: ăn ó vàng, xám – thua ô, điều. *Xám: ăn ô, ó vàng – thua điều, nhạn *Ô: ăn nhạn, điều – thua xám, ó vàng *Điều: ăn xám, nhạn – thua ó vàng, ô *Ó: vàng ăn điều, ô – thua nhạn, xám

*Luận “thắng-thua” thì quan hệ tương-khắc rất dễ hiểu, ví như “ta khắc địch” = ta thắng, địch thua, “địch khắc ta” = địch thắng, ta thua (khắc xuất ăn khắc nhập). Nhưng khi bàn về quan hệ tương-sinh thì biết ai thắng, ai thua? Về bản chất thì quan hệ tương-sinh là quan hệ hỗ trợ, giúp đỡ chứ không phải là quan hệ đối kháng. Tuy nhiên, khi áp dụng vào đá gà thì phải có ăn thua. Căn cứ theo ngũ hành luận thì sinh xuất bị thiệt, mất công lực, sinh nhập được lợi, tăng công lực –> sinh nhập ăn sinh xuất. Ví như “ta sinh địch” = ta thua, địch thắng, “địch sinh ta” = địch thua, ta thắng.

*Kê kinh không nói rõ thắng-thua trong quan hệ tương-sinh như thế nào nhưng ở phần nhật thần sinh-khắc, “sinh nhập” luôn thu được lợi thế trong khi “sinh xuất” bị liệt vào vận hạn. Chẳng hạn, ngày mộc thì gà tía mạnh nhất bởi mộc sinh hỏa, ngày thủy thì gà nhạn (kim) bị rơi vào ngày kỵ. Như vậy, chúng ta có thể mạnh dạn suy luận rằng “sinh nhập ăn sinh xuất”, điều này cũng thuận với ngũ hành luận. Phải nêu rõ như vậy bởi có tồn tại quan điểm trái ngược “sinh xuất ăn sinh nhập”, ví như ta sinh địch = ta thắng, địch thua, địch sinh ta = địch thắng, ta thua.

Tứ thời sinh khắc

*Tứ thời sinh khắc là quan hệ vượng-suy của các hành theo mùa.

*Xuân, hạ, thu, đông: bốn mùa tuần hoàn, hoán chuyển. Cuối mỗi mùa đều có một giai đoạn nhập thổ (tứ quý). Hành đại diện của các mùa: xuân-mộc, hạ-hỏa, thu-kim, đông-thủy, tứ quý-thổ.

*Quan hệ của màu gà theo mùa. Chẳng hạn, gà xám cực thịnh (vượng) vào mùa đông, mạnh (tướng) và mùa đông, ổn định (hưu) vào mùa hạ, sa sút (tù) vào tứ quý và bại (tử) vào mua thu.

*Quan hệ của mùa theo màu gà. Chẳng hạn, vào mùa đông, gà ô cực thịnh (vượng), gà xám mạnh (tướng), gà nhạn ổn định (hưu), gà ó vàng sa sút (tù) và gà điều bại (tử).

*Khi một hành quá vượng hoặc quá suy sẽ diễn ra sự mất cân bằng trong quan hệ sinh-khắc, hiện tượng khinh lờn hay tương vũ xuất hiện. Các hành ở “vượng”, “tướng” chuyển hung thành cát, các hành ở “tù”, “tử” chuyển cát thành hung. Chẳng hạn:

Mùa xuân mộc thạnh khôn cùng Gà nhạn tuyết ấy khắc đồng mấy cho

Gà nhạn sa sút (tù) vào mùa xuân. Giả sử gà nhạn đá với gà xám, theo lẽ thường “kim khắc mộc” thì nhạn phải thắng xám. Nhưng vì nhạn sa sút (tù) trong khi xám cực thịnh (vượng) nên “mộc vũ kim”, xám thắng ngược nhạn!

*Mùa thu rơi vào đỉnh điểm của mùa mưa, mùa này gà thường xổ lông, không mấy ai đá nên gà nhạn dù lợi thế cũng không có nhiều cơ hội để thi thố.

*Bảng ở trên dựa vào ngày âm lịch. Chẳng hạn, tra lịch vạn niên: ngày 16-10-2011 là ngày 20-9 năm Tân Mão (âm lịch), rơi vào tứ quý (nhập thổ). Theo tứ quý thì thứ tự ưu tiên như sau: ó vàng, nhạn, điều, xám, ô. Tốt nhất nên mang gà ó vàng hay nhạn đi đá, tránh các màu còn lại. Bấm vào đây để xem: ví dụ.

Nhật thần sinh khắc

*Nhật thần sinh khắc là quan hệ sinh-khắc của màu gà đối với hành của ngày.

*Hành của thập thiên can: Giáp, Ất=mộc Bính, Đinh=hỏa Canh, Tân=kim Nhâm, Quí=thủy Mậu, Kỷ=thổ

*Tra nhật thần (lịch vạn niên): chẳng hạn ngày Ất Mão, theo bảng trên Ất=mộc suy ra ngày Ất Mão hành mộc.

*Ngày kỵ: nếu rơi vào “vận tam lâm” thì không mang gà đi đá; “vận tam lâm” bao gồm các trường hợp sau: gà khắc ngày, ngày khắc gà, gà sinh xuất ngày (mất công lực). Chẳng hạn, ngày Nhâm Thìn hành thủy, các gà ó vàng, nhạn, và điều kỵ ngày, không đá được.

Thổ, kim, hoả, vận tam lâm Nhựt thần là thủy khắc thâm ba chàng

*Ngày tốt: bình hòa hoặc sinh nhập; chẳng hạn, ngày Ất Mão hành mộc, gà xám và gà điều tốt ngày, đem đá được; nhưng gà điều mạnh hơn vì được tiếp thêm công lực (mộc sinh hỏa).

Ngày nào thuộc mộc tía no

*Một ví dụ về tầm quan trọng của nhật thần: bình thường thì ô ăn tía (thủy khắc hỏa) nhưng vào ngày hỏa thì “hỏa vũ thủy”, tía ăn ngược lại ô!

Tía thuộc mạng hoả là thường, Ô thủy gặp (ngày) hoả phải nhường anh va

*Ngày âm lịch bao gồm 2 yếu tố: thiên can và địa chi. Thiên can có hành của thiên can, địa chi có hành của địa chi. Khi thiên can kết hợp với địa chi thì chúng ta có một yếu tố thứ 3 là nạp âm, nạp âm cũng có hành riêng. Kê kinh lấy hành của thiên can để tính nhật thần cho gà (mà bỏ qua địa chi và nạp âm), chẳng hạn ngày Giáp Thìn, tra bảng trên: Giáp=mộc suy ra ngày Giáp Thìn hành mộc. Bởi mộc sinh hỏa nên đem gà tía đi đá là lợi nhất, kế đó là gà xám. Bấm vào đây để xem: ví dụ.

*Nhiều cách xem mạng gà khác dựa vào nạp âm. Nạp âm là kết hợp của can chi theo bảng Lục thập hoa giáp. Bảng này có nguồn gốc cổ xưa và người ta vẫn thường áp dụng vào việc bói toán, xem tuổi cho người. Chẳng hạn, ngày Giáp Thìn hành hỏa nhưng là “phú đăng hỏa” (lửa đèn). Có vài ba loại hành hỏa và các hành khác như kim, mộc, thủy, thổ cũng vậy. DẫuKê kinh không sử dụng nạp âm trong tính toán nhật thần nhưng cũng xin liệt kê ra đây để tránh nhầm lẫn!

*Một trong những khác biệt của bản Kê kinh diễn nghĩa đăng trên báo Nông cổ mín đàm (1902) với những bản Kê kinh lưu hành trong dân gian (và được các sách gà ngày nay đăng lại) là phần nói về “nhật thần sinh khắc”. Bản đăng trên báo hơi lủng củng, và có đôi chỗ mâu thuẫn về “ngũ hành luận” nhưng vẫn truyền tải được nội dung chính; trong khi các bản “chỉnh lý” lưu hành trong dân gian hầu như cắt bỏ phần này và thay bằng vài ba câu đơn giản, tuy đúng nhưng lại không đầy đủ.

Thảo luận

*Xem ra việc xác định sắc lông chính của gà là quan trọng nhất bởi nó không chỉ ảnh hưởng đến màu mạng mà còn đến các yếu tố khác như tứ thời sinh-khắc và nhật thần sinh-khắc. Đôi khi, việc này không hề dễ dàng vì gà chọi ngày nay được lai tạo với nhiều màu sắc khác lạ, chẳng hạn những màu pha như cam hay nâu. Hoặc giả, gà có hai, ba màu mà không màu nào tỏ ra vượt trội thì biết lấy màu nào làm sắc chính? Do vậy, nếu coi trọng phép xem mạng này thì người chơi nên chọn màu gà không rơi vào trạng thái lửng lơ, hành phải thể hiện một cách rõ rệt. Có như vậy thì việc tính toán mới thuận lợi.

*Nếu tuân theo quy luật “màu xanh thuộc hành mộc” thì chỉ có những màu lông lẫn sắc xanh như xám khô (blue) hay xám bùn (splash) thuộc về hành mộc. Màu xám không lẫn sắc xanh, chẳng hạn như màu bờm, mã của gà chuối tro, là màu pha trắng-đen (kim pha thủy). Tham khảo ở đây.

*Bông “cú” là một dạng hoa văn đặc biệt (tham khảo ở đây). Bất kể gà gì, hễ dính chút bông “cú” đều được gọi là “gà cú” bởi vậy, gà cú có rất nhiều biến thể khác nhau. Gà cú là gà đa sắc mà trong đa số trường hợp, rất khó để nhận biết đâu là sắc lông chính. Hai dạng cú điển hình ở gà chọi bao gồm cú thuần (thân vằn đen trắng, bờm vằn vàng) –> hành thổ pha kim pha thủy, cú vằn (vằn đen trắng) –> hành kim pha thủy. Còn đây là ví dụ về những con gà cú mà chúng ta có thể xác định được sắc lông chính: ví dụ 1 (hành thổ), ví dụ 2 (hành kim).

*Trên thực tế, phép xem màu mạng gà phổ biến đến nỗi người ta không cho đối phương nhìn thấy gà khi cáp, gà được cất trong giỏ, cáp theo cân nặng, một khi hai bên đồng ý là lấy ra đá luôn. Bỏ đá sẽ bị phạt.

*Lưu ý đến quan hệ “tương vũ”. Kê kinh nhấn mạnh đến quan hệ này trong các phần tứ thời sinh-khắc và nhật thần sinh-khắc. Qua đó, chúng ta nhận thấy hai phần này quan trọng hơn hẳn sinh-khắc của màu lông.

*Bởi không thể biết trước màu lông gà địch, mỗi khi ra trận, chúng ta chỉ có thể tính toán tứ thời sinh-khắc và nhật thần sinh-khắc sao cho có lợi nhất cho gà của mình. Theo Kê kinh thì hai yếu tố này quan trọng hơn so với sinh-khắc của màu lông. Chẳng hạn, vào mùa xuân thì gà xám mạnh nhất kế đó là gà điều, khi đem gà xám đi đá thì chọn ngày thủy, kế đó là ngày mộc; khi đem gà điều đi đá thì chọn ngày mộc, kế đó là ngày hỏa. Bởi trường gà thường mở vào cuối tuần, chúng ta cần tính tiếp xem ngày cuối tuần nào là phù hợp. Sau khi xác định được màu gà và ngày xuất trường rồi thì lên kế hoạch biệt dưỡng và ốp sao cho gà tới độ vào đúng thời điểm dự tính.

*Còn một số cách tính nữa tuy Kê kinh không bàn đến nhưng vẫn có người áp dụng, chẳng hạn:

Sinh khắc theo giờ: dưới đây là bảng quy đổi từ giờ sang hành. Một khi có hành, chúng ta sẽ tra theo bảng ở phần “nhật thần sinh khắc” để tránh giờ kỵ, chọn giờ thuận lợi.

Qua bảng tính giờ này chúng ta sẽ thấy khoảng thời gian đá gà trong ngày (7 giờ sáng đến 5 giờ chiều) ứng với các hành thổ, hỏa và kim. Qua phân tích chúng ta sẽ thấy các màu nhạn, ó vàng và ô đều có những lúc lợi nhất, màu điều cũng có lúc lợi nhưng không bằng. Đặc biệt gà xám luôn bất lợi (trừ phi tổ chức đá lúc nửa đêm!).

Phương hướng thả gà: mỗi giờ ứng với một hướng, dựa vào đó mà thả gà.

Sinh khắc theo màu chân: vàng ăn chì, chì ăn trắng, trắng ăn xanh và vàng, xanh ăn vàng và chì.

*Người Philippines lập bảng tử vi cho gà (cock horoscope) tức tương quan giữa màu lông & màu chân với tuần trăng. Khả năng đá được tính theo thang đo từ 1 đến 18. Nguyên tắc chung: vào tuần trăng non, trời tối thì gà sẫm màu, chân chì đá tốt; vào tuần trăng rằm, trời sáng thì gà sáng màu, chân trắng, chân vàng đá tốt.

*RB Sugbo Gamefowl Technology, một công ty chuyên kinh doanh và nghiên cứu về gà đá ở Philippines, tiến hành thí nghiệm trên gà đá (gà Mỹ) từ tháng 12/2004 đến tháng 3/2005: kết quả cho thấy gà đá có nhịp điệu sinh học (bio rhythm) nhưng trái với điều mà mọi người vẫn nghĩ, nhịp điệu sinh học không liên quan gì đến bảng tử vi của gà. Cách thực hiện: 20 con gà trống và trống tơ được chọn một cách ngẫu nhiên từ các dòng và bầy lai khác nhau. Mỗi con gà được cáp đá sau mỗi 4 ngày và các thông số được ghi nhận. Sau 24 trận, biểu đồ cho thấy gà có nhịp điệu sinh học theo một chu kỳ bao gồm 4 pha trùng với 4 tuần trăng trong một nguyệt kỳ. Gà đá hay dần trong hai tuần trăng đầu rồi sút dần trong hai tuần kế đó.