Xem Hoa Lan Vanda Có Hương Thơm

Một vài bạn hỏi rằng có phải cây lan Mỹ dung dạ hương (Vanda denisoniana) của ta có phải là thơm nhất không?

Xin thưa rằng cây này không phải của riêng chúng ta mà Miến Điện, Trung Hoa, Thái Lan, Lào đều có cả. Còn thơm nhất thì cũng xin thưa rằng không, hơn nữa câu hỏi quá bao quát, không rõ ràng. Bạn muốn nói thơm nhất trong loài Vanda hay thơm nhất trong các loài hoa Lan?

Theo John Clark Cuddy một nhà trồng lan và nghiên cứu về hương thơm, những cây Vanda có hương thơm được xếp hạng như sau:

1. Vanda tricolor 2. Vanda cristata hay Trudelia cristata 3. Vanda denisoniana 4. Vanda amesiana hay Holcoglossum amesiana 5. Vanda pumila hay Trudelia pumila 6. Vanda alpina hay Trudelia alpina

Chúng ta cũng nên tìm hiểu sơ qua về sự khác biệt giữa 2 loài Vanda và Trudelia. Năm 1881 Nathaniel Wallich khám phá được cây lan Vanda cristata tại Nepal và gửi về vườn bách thảo Kew, Anh quốc. John Lindleyi là người đầu tiên mô tả cây này vào năm 1834 trong cuốn “Những loài và những giống hoa lan” (Genera and Species of Orchidaceous Plants).

Năm 1986 Leslie Garay lập ra loài Trudelia căn cứ vào lưỡi của bông hoa Trudelia alpina không có cựa và hướng ra phía trước và Karlheins Senghas chuyển các cây Vanda cristata và Vanda pumila sang loại Trudelia vào năm 1888. Nhưng năm 1992-1996 Eric Christenson vẫn cho rằng những cây này thuộc loài Vanda. Vì vậy bây giờ nhiều người cho 2 loại kể trên chỉ là đồng danh, ai muốn gọi sao thì gọi.

Trong số 6 cây này, ngoại trừ cây Vanda Tricolor mọc ở Java và Lào, 4 cây sau đều có mọc tại Việt Nam, nhưng biết đâu chúng ta chẳng có, có thể là tìm chưa ra đó thôi.

*Vanda tricolor thường mọc ở trên cành cây hoăc ở gần gốc, thân cao trên dưới 1 m, lá dài 40-50 cm, rộng 3-4 cm. Chùm hoa mọc ở nách lá, dài 25-35 cm mang theo 7-15 hoa. Hoa to từ 5-7 cm, mầu trắng có những đốm hay sọc tím nâu ở mặt trước, mặt sau trắng tuyền, nở vào mùa Hạ và lâu tàn. Hương thơm ngát khi có nắng vào khoảng 9-10 giờ sáng đến giờ chiều.

* * * * *Vanda alpina hay Trudelia alpina Thân cao chừng 20-25 cm, lá dài 15-20 cm hoa 2-3 chiếc, to khoảng 2 cm, nở vào cuối mùa Xuân. Cánh hoa mầu xanh đậm hơn các giống Trudelia cristata và Trudelia pumila và lưỡi hoa hình tam giác với mầu nâu sậm.

Vanda pumila hay Trudelia pumila là một cây lan nhỏ moc tại các nước Á Châu. Cao chừng 20-30 cm, lá dài khoảng 12 cm. Dò hoa ngắn có từ 3-5 hoa mầu xanh trắng hay xanh nhạt, to khoảng 3-5 cm. Có người nhầm lẫn cây này với Vanda cristata. Nếu nhìn kỹ sẽ thấy lưỡi hoa Trudelia cristata chẻ làm 2 như lưỡi rắn, trái lại lưỡi hoa Trudelia pumila hình tròn. Người ta thường gọi là Lan Uyên Ương vì phần đông chỉ có 2 hoa nhưng tại vườn lan Vĩnh Mai và tại Đà lạt có nhiều cây có tới 4-5 hoa.

Vanda amesiana hay Holcoglossum amesiana cây, lá giống như Vanda, nhưng hoa lại giống như Holcoglosum, nên mỗi người gọi một khác. Thân cao từ 20-40 cm lá dài 20-25 cm. Dò hoa dài 30-25 cm có tới 15-30 hoa nở vào cuối mùa Đông tại Trung Quốc, Miến Điện, Lào, Việt Nam và Căm Bốt.

Vanda denisoniana là một loài phong lan cao tới gần 1 m, lá mọc 2 bên dài 30-40 cm rộng 3-4 cm. Chùm hoa mọc ở nách lá thứ 6-7, dài 20-30 cm có 5-8 hoa to chừng 5-7 cm mầu vàng chanh nở vào mùa Xuân hay dầu mùa Hạ. Hương thơm như mùi va-ni vào lúc nhá nhem tối. Hình ảnh bên dưới chúng tôi chụp tại Vườn Lan Vĩnh Mai Đà Lạt vào tháng 4-2009. Nhưng Vanda denisoniana cũng có có cây hoa mầu vàng sậm hay nâu đậm được coi như là một biến dạng Vanda denisoniana var. hebraica mà cũng có người cho là Vanda brunei.

Vanda cristata hay Trudelia cristata là một cây phong lan lan cỡ trung bình, mọc tại Hồi, Ấn độ, Tây Tạng và Trung Hoa trên các cao độ từ 600-2300 m. Thân cao chừng 25-30 cm, lá dài 20-30 cm, chùm hoa ngắn 15-20 cm. Hoa 5-7 chiếc to 3-5 cm, cánh hoa mầu xanh, dầy và cứng lâu tàn. Lưỡi hoa phía dưới chẻ làm hai.

Theo các sách vở và tài liệu để lại từ trước, cây lan này không mọc tại Việt Nam. Nhưng trong bản Turczaninowia 2005, 8(1): 39-97 Tiến sĩ Leonid Averyanov xác nhận ngày 9-3-2004 Tiến sĩ Phan Kế Lộc và T. T. Anh đã tìm thấy tại Thuận Châu, Sơn La. Trong bộ sưu tập của các anh Nguyễn Minh Đức, Chu xuân Cảnh đều có cây này. Và chính tôi cũng thấy cây này tại Vườn Quốc gia Hoàng Liên Sơn vào tháng 3 năm 2009.

Martin R. Motes một chuyên gia về Vanda cho biết mầu sắc của lưỡi hoa có thể thay đổi từ mầu nâu đen sang đỏ thẫm cùng trong một cây hay từ năm này qua năm khác.

Thực ra nếu chỉ nghe mô tả và xem qua các hình ảnh, chúng ta khó lòng nhận xét và so sánh giữa các cây Trudelia. Nhưng may thay một người có lẽ là người Việt, với biệt danh Cholon đã đưa lên hình ảnh của cây Trudelia alpina với 3 chiếc hoa của Trudelia cristata, Trudelia pumila và Trudelia alpina chụp chung với nhau bên chiếc thước, thực là rõ ràng.

Bón Phân Lâm Thao Npk

1. Đặc điểm sinh trưởng

Cây dưa chuột có tên khoa học là Cucumis sativus L. thuộc họ bầu bí Cucurbitaceae; là loại rau ăn quả có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất cao. Nhiệt độ trung bình ngày đêm thích hợp cho dưa chuột là 22 – 24 độ C, tuy nhiên đây là cây chịu được nóng tốt nên ở Việt Nam có thể trồng được vào vụ hè.

Nếu nhiệt độ đất bằng 15,6 độ C thì phải mất 9 – 16 ngày hạt dưa chuột mới nảy mầm được, nếu nhiệt độ đất là 21 độ C thì chỉ mất 5 – 6 ngày hạt nảy mầm. Trường hợp quá nóng vào giai đoạn ra hoa thì cũng giảm khả năng thụ phấn của hoa. Dưa chuột cũng là cây chịu độ ẩm đất và không khí cao hàng đầu so với các loại rau. Giai đoạn cây dưa chuột tăng trưởng mạnh, yêu cầu về dinh dưỡng và nước cao từ sau khi hình thành tua bám vào dàn cho đến ra hoa, hình thành quả…

2. Các chỉ tiêu kỹ thuật của quả dưa chuột chế biến

Nông dân huyện Yên Thế (tỉnh Yên Bái) có thu nhập khá nhờ chuyển đổi diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang trồng dưa chuột. Ảnh: I.T

– Quả cho muối chua gồm có 2 loại quả: Quả nhỏ và quả bao tử.

* Quả nhỏ: Dưa chuột phải non, tươi, hình dạng bình thường. Thông thường kích thước quả: Chiều dài 6 – 11cm, đường kính quả 1,5 – 2 cm (giống TN 011, Phú Thịnh, Tam Dương).

* Quả bao tử: Dưa chuột bao tử phải non, tươi, phát triển bình thường, không già, vàng, cong queo. Kích thước quả: đường kính chỗ lớn nhất không quá 1,7cm; chiều dài không quá 7,0cm (gồm có 4 giống, trong đó có giống Marinda).

– Quả cho muối mặn: Dưa chuột muối mặn có màu gai trắng, vỏ xanh đậm, quả dài (30 – 45cm), đường kính quả khoảng 4 – 5cm, quả đặc để muối mặn, sản phẩm cho xuất khẩu (thị trường Nhật Bản) hoặc loại giống có kích thước quả 20 – 25cm x 2,8 – 3,0cm (thị trường Đài Loan, Singapore, Hong Kong).

– Quả cho chẻ nhỏ dầm dấm:

* Đóng hộp chẻ 3, 4: Quả đặc có đường kính 3,4 – 5,4 cm, quả dài 9 – 10cm.

* Dưa chuột chế biến thái lát: Các giống dùng cho sản phẩm này không yêu cầu khắt khe về chiều dài quả, nhưng yêu cầu đường kính quả trong khoảng 2,8 – 3,5 cm, thịt đặc, sau chế biến vẫn giữ được màu xanh đẹp.

3. Đánh giá các giống nghiên cứu

– Dạng sản phẩm cho chế biến muối chua bao gồm 2 dạng quả:

* Quả bao tử: Gồm 4 giống, trong đó có 1 dòng của Việt Nam, còn lại là 3 giống F1 của Đài Loan, Hà Lan và Mỹ.

* Quả nhỏ, gồm 23 giống, trong đó chủ yếu là các giống địa phương và các dòng dưa chuột đang được chọn của Việt Nam. Ngoài ra có 6 giống từ Thái Lan và 3 giống từ Đài Loan.

– Dạng sản phẩm cho chế biến muối mặn. Ở nhóm giống này chủ yếu có nguồn gốc từ Việt Nam (10 giống), Đài Loan (4 giống) và Nhật Bản (5 giống).

4. Đặc điểm sinh trưởng, phát triển của các giống dưa chuột cho chế biến

Căn cứ vào chỉ tiêu độ chín sớm nông học (thời gian từ mọc đến thu quả đầu), đây là chỉ tiêu rất quan trọng để xây dựng các tổ hợp lại có thời gian sinh trưởng khác nhau, các giống được phân thành các nhóm sau:

– Nhóm giống chín sớm: Thời gian từ mọc đến thu quả đầu sớm, dao động 30 -35 ngày. Trong nhóm này có giống TN 011, Tam Dương, PC 4…

– Nhóm giống chín trung bình: Có thời gian từ mọc tới thu quả đầu 35 – 40 ngày, như giống Phú Thích, Marinda, PC1…

– Nhóm giống chín muộn: Có thời gian từ mọc tới thu quả đầu từ 40 – 45 ngày trở lên, là các giống Vista, Số 266…

5. Kỹ thuật gieo trồng

5.1. Thời vụ

– Vụ xuân gieo hạt từ tháng 1 đến tháng 2 (có thể kéo dài đến hết tháng 3); vụ đông từ tháng 9 đến tháng 12; vụ hè từ tháng 4 đến tháng 7. Năng suất cao nhất là vụ xuân, thấp nhất vụ hè.

– Đối với các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc có thể trồng dưa chuột quanh năm, tuy nhiên vào các tháng quá lạnh như cuối tháng 12, tháng 1 thì năng suất dưa chuột thường giảm mạnh vì nhiệt độ thời gian này xuống thấp.

– Các tỉnh phía Nam gieo hạt cuối tháng 4 đầu tháng 5, thu hoạch giữa tháng 6 đến hết tháng 7.

5.2. Gieo cây con

Để tiết kiệm hạt giống, công chăm sóc cây giai đoạn đầu và tăng độ đồng đều của cây, cần sản xuất cây con trong khay xốp hoặc khay nhựa có kích thước 60 x 45cm với số lượng 60 hốc/khay.

Vật liệu làm bầu gồm 40% đất, 30% trấu hun hoặc mùn mục và 30% phân chuồng hoai mục.

Hạt ngâm trong nước ấm 35 – 40 độ C trong thời gian 3 giờ, sau đó ủ ở nhiệt độ 27 – 30 độ C. Khi hạt nứt nanh thì đem gieo vào các hốc, mỗi hốc 2 hạt và tưới đủ ẩm.

Lượng hạt dưa gieo cho 1 ha là 0,7 – 1,0kg/ha (30 gr/sào Bắc Bộ 360m2).

5.3. Làm đất, trồng cây

Dưa chuột có thể trồng được trên nhiều loại đất nhưng thích hợp trên đất có độ phì nhiêu cao, trung tính, pH từ 6 – 7,0.

Đất chưa trồng các cây họ bầu bí để tránh lây nhiễm sâu, bệnh. Dưa chuột kém chịu trong môi trường đất chua mạnh.

Khoảng cách gieo trồng thích hợp: Hàng cách hàng 50 – 60cm, cây cách 30 – 40 cm, tương ứng với mật độ 27.000 – 43.000 hốc/ha (tương ứng với 1.000 -1.500 hốc/sào Bắc Bộ).

Chú ý nếu gieo trồng ở vụ xuân hè hoặc vụ hè thì mật độ thưa, còn ở vụ đông thì mật độ dày hơn. Làm đất kỹ, nếu gieo trồng vào xuân hè hoặc vụ hè có mưa nhiều thì phải lên luống cao 30cm, vào vụ đông thì lên luống 20cm. Mặt luống rộng 90 – 100cm.

Đào hốc hoặc đánh rạch theo hàng dọc theo luống, hàng cách mép luống 20 cm. Cho phân bón lót vào hốc, trộn đều với đất. Vì gieo thẳng hạt nên sau khi bón phân lót phải rắc lớp đất bột mịn lên trên, sau đó rắc hạt, mỗi hốc 3 hạt…

Sau này khi cây đã mọc 2 – 3 lá thật phải tỉa bớt cây con chỉ để lại 1 – 2 cây/hốc.

Đối với giống lai F1 thì chỉ để lại 1 cây/hốc.

Sau gieo phủ rạ lên trên hốc, tưới đẫm nước. Sau đó hàng ngày tưới nước duy trì ẩm cho đến bén rễ hồi xanh.

6. Bón phân NPK-S Lâm Thao cho cây dưa chuột (trong đó có dưa chuột bao tử)

– Bón lót: 15 – 20 tấn phân chuồng hoai mục/ha (500 – 700kg/sào Bắc Bộ) + 600-750kg/ha NPK-S 6.8.4.9 (từ 22-2 kg/sào Bắc Bộ).

– Bón thúc: Chia làm 3 lần:

* Thúc lần 1 khi cây có 2 – 3 lá thật. Dùng NPK-S loại 12.3.13-8 như sau: 350 – 400 kg/ha (12 – 14kg/sào).

* Thúc lần 2 khi cây cao 20cm, đã có tua cuốn. Dùng NPK-S loại 12.3.13-8 như sau: 300 – 350kg/ha (11 – 13 kg/sào). Bón thúc phân xong thì cắm giàn.

* Thúc lần 3 khi cây ra hoa và có quá rộ. Dùng NPK-S loại 12.3.13-8 khoảng 250 – 300 kg/ha (9 – 11 kg/sào). Bón thúc lần này kết hợp với tháo nước vào rãnh để tưới cho cây.

7. Thu hoạch và để giống

Để ăn tươi phải thu hoạch sớm khi các u vấu ở quả còn nổi rõ, tức là sau khi hoa cái tàn 7 – 10 ngày. Muốn để giống chọn quả ở gốc, đều, thẳng.

Thu khi quả thật già, vỏ vàng nhiều rạn chân chim. Để thêm 7 – 10 ngày nữa cho hạt chín sinh lý, sau đó bổ ra lấy hạt, đãi, hong khô.

Chúc bà con nông dân sử dụng phân bón NPK-S Lâm Thao theo khuyến cáo để đạt năng suất và chất lượng dưa chuột cao, phục vụ cho tiêu thụ nội địa hoặc xuất khẩu.

http://danviet.vn

Phân Bón Super Lân Lâm Thao

Phân Lân Chuyên dùng để bón lót, bón thúc, ủ phân, hạ độc, giải phèn cho đất Khối lượng: Túi 1kg, Bao 30kg (Khách hàng mua số lượng nhiều liên hệ shop)

Công ty sản xuất: Công ty Cổ Phần Supe Phốt Phát và Hóa Chất Lâm Thao

Hàm lượng P2O5 tự do: ≤4%

Hàm lượng P2O5 hữu hiệu: 16-16,5%

Hàm lượng lưu huỳnh (S): 11%

Phân bón Supe lân Lâm Thao được sản xuất từ quặng apatit loại phối trộn với axit sunfuric được sản xuất từ lưu huỳnh nên axit không bị lẫn tạp chất có chứa độc tố. Vì vậy, sản phẩm Supe lân Lâm Thao là sản phẩm sạch, khi bón không gây ngộ độc cho cây, không ảnh hưởng đến sức khoẻ con người.Thành phần P205 hữu hiệu của sản phẩm dễ tan trong nước. Ngoài ra, trong thànhphần Supe lân còn có một số nguyên tố trung, vi lượng khác như Ca, Mg, lưu huỳnh…giúp cho cây trồng dễ dàng hút và lấy dinh dưỡng để nuôi cây, tăng cường chịu hạn,chịu rét, kích thích sự ra hoa, kết trái, chắc củ, sáng hạt.

Công dụng:

-Lân rất cần cho sự hình thành nên các bộ phận mới ra mầm non, đẻ nhánh, phân cành, ra hoa, đậu quả và phát triển hệ rễ.

-Lân ảnh hưởng đến sự vận chuyển đường, bột tích lũy về hạt và các bộ phận thu hoạch.

-Lân còn ảnh hưởng đến tính lưu động của chất nguyên sinh làm cho cây chống được lạnh, chống được nóng.

-Lân còn có tác dụng đệm, làm cho cây chịu được chua, kiềm. Nên thường được dùng bón lót hay trộn với đất trồng trước khi trồng

Hướng dẫn sử dụng:

-Sử dụng phân bón lót hoặc bón thúc cho tất cả các cây trồng

-Phân này có thể sử dụng để bón ở các loại đất trung tính, đất kiềm, đất chua đều được. Tuy nhiên, ở các loại đất chua nên bón vôi khử chua trước khi bón supe lân.

-Supe lân có thể dùng để ủ với phân chuồng cùng với

-Bón gốc hoặc bón tập trung Phân supe lân thường phát huy hiệu quả nhanh, tăng hiệu của phâ

https://www.facebook.com/caycanhsxanh/

Ý Nghĩa Hoa Ngọc Anh Trong Đông Y

/5 – 0 Bình chọn – 3067 Lượt xem

Sở hữu vẽ đẹp dịu dàng, hương thơm thanh mát, trong Đông y khá lớn, khi kết hợp với trà sẽ giúp người thư giãn, nếu làm thuốc có thể hạ sốt, giảm ho khan.

Ngọc Anh đêm nay đã nở hoa chưa em

Phiến trắng mong manh với cánh tơ xinh mềm

Nụ hoa thơm ngát trong hương đêm

Ngoài kia trăng sớm đã lên

Nếu trong tình yêu, ý nghĩa hoa ngọc anh đại diện cho những gì hồn nhiên nhất, ngây thơ nhất của những cặp đôi vừa phải lòng nhau, thì trong Đông y đây chính là loài hoa cho ra vị thuốc.

Thuộc họ hoa lài và thường biết đến với một tên khác là hoa lài trâu, hoa ngọc anh chỉ có một màu trắng muốt duy nhất, nhưng lại được thiên nhiên ban tặng cho hương thơm rất dễ chịu. Nhất là với những cây cho hoa dạng kép với nhiều cánh xếp thành nhiều lớp hương đã thơm sẽ càng thơm hơn.

Theo tiến sĩ Võ Văn Chi, chính là tác giả Từ điển Cây thuốc Việt Nam thì tất cả bộ phận của hoa ngọc anh đều có tác dụng điều trị bệnh. Nếu hoa lài phơi khô phối chung với lá trà có thể hỗ trợ thanh thuần tỉnh não chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn gây bất lợi cho cơ thể.

Thì lá và rễ hoa ngọc anh có vị cay, ngọt, tính mát rất hợp dùng để điều trị ngoại cảm, phát nhiệt, bụng đầy, tiêu chảy, rôm sảy. Ngoài những công dụng trên, các nghiên cứu khác thấy rằng ý nghĩa hoa ngọc anh trong đông y còn hỗ trợ giảm cholesterol, giúp giảm cân, điều hòa đường máu để phòng bệnh đái tháo đường.

Kết hợp các yếu tố, từ công dụng, hương thơm và vẻ đẹp thanh khiết, hoa ngọc anh đang được trồng ngày một nhiều và phổ biến. Các ngôi nhà có thể trồng trước cửa để trang trí, hưởng hương thơm và làm trà; còn những nơi như công viên, trường học, vòng xoay sẽ trồng hoa ngọc anh để trang trí, vì cơ bản là loài hoa này dễ trồng và dễ dàng cắt tỉa

Làm sao để chăm sóc cây ngọc anh tốt?

Để trồng hoa ngọc anh bạn có thể áp dụng hai cách, một là trồng bằng hạt, hai là trồng bằng cách giâm cành. Đánh giá của các nhà vườn thì hình thức trồng hoa ngọc anh giâm cành sẽ ra dễ nhanh hơn.

Theo đó, bạn chỉ cần chiếc một cành hoa ngọc anh thật khỏe mạnh rồi giâm cành xuống nền đất tơi xốp. Hoa ngọc anh phát triển mạnh và cho nhiều hoa khi nó được cung cấp đủ nước và đủ ánh nắng, thế nên bạn không nên đặt cây dưới tán của cây khác.

Nếu muốn hoa ngọc anh phát triển mạnh mẽ thì việc trồng hoa trong chậu với phần đất bị giới hạn không phải lựa chọn tốt. Thay vào đó bạn hãy trồng hoa ngọc anh dưới đất màu mỡ để cây được phát triển tốt hơn.

Giá Trị Y Học Của Cây Lan Kim Tuyến

Cây Lan kim tuyến còn gọi là lan gấm, kim tuyến liên, mộc sơn thạch tùng, lá gấm.Cây lan kim tuyến là loài địa lan thân bò rồi đứng, cao khoảng 20 cm, thân tròn có nhiều nách. Lá trơn hình trứng hay hình ê líp, mặt trên màu xanh đen, mặt dưới của lá màu tím . Lan kim tuyến có rất nhiều tác dụng đối với sức khoẻ, bài viết sau đây sẽ giúp các bạn biết rõ hơn giá trị y học của cây lan kim tuyến.

Cây lan kim tuyến có tại các vùng rừng già Lâm Đồng: Đà Lạt, Lạc Dương, Đơn Dương, Di Linh. Mùa Đông Xuân, lan kim tuyến ra hoa màu trắng, nhụy hoa có lông.

Theo tài liệu của Đài Loan thì cây Lan kim tuyến là một loại cây nổi tiếng vô cùng quý giá có bán tại các tiệm thuốc Bắc hoặc dùng trong nhân dân. Cây Lan kim tuyến có tác dụng: tăng cường sức khỏe, làm khí huyết lưu thông. Cây thuốc có tính kháng khuẩn, chữa các bệnh viêm khí quản, viêm gan mãn tính. Ngoài ra còn dùng chữa thần kinh suy nhược, chữa ho khan, đau họng, cao huyết áp, suy thận, chữa di tinh, đau lưng, phong thấp, làm tiêu đờm, giải độc, giải nhiệt.

Cây Lan kim tuyến dùng cả cây tươi hoặc khô sắc uống. Liều dùng trong ngày khoảng 20 g tươi hoặc 5 g khô. Dùng ngoài: cả cây tươi giã nát đắp chỗ vết thương sưng đau.

Tài liệu Khảo cứu về cây thuốc Kim tuyến liên của Đài Loan có viết về giá trị y học như sau:

1. Ông Tả Mộc Thuấn – học giả người Nhật – nghiên cứu về Trung y tuyên bố năm 1924: Kim tuyến liên là một trong những cây thuốc quý trong dân gian; toàn thân cây thuốc được dùng để làm tăng cường sức khỏe, chủ trị bệnh phổi, di tinh, xuất tinh sớm, yếu gan, yếu tỳ và các vết thương do rắn cắn; còn có tác dụng bổ máu, giải nhiệt.

2. Ông Sơn Điền Kim Trị tuyên bố năm 1932: Người dân tộc miền núi thường dùng Kim tuyến liên sắc uống để trị đau ruột, đau bụng, sốt cao, đắp bên ngoài để trị các chỗ sưng vết thương và chỗ bị rắn cắn.

3. Trong sách Thanh thảo gia đình tự liệu pháp của ông Trần Đào Thích có viết: Trẻ em hay khóc dùng Kim tuyến liên sắc uống sẽ khỏi.

4. Trong sách Khoa học quốc dược quyển I kỳ 2 (năm 1958) của ông Tạ A Mộc và Trần Kiến Đào đăng tải trong tạp chí Đài Loan dân gian dược dụng thực vật có nói đến Kim tuyến liên là một trong những dược thảo quý giá, giúp bổ máu, dưỡng âm, chữa trị nóng phổi và nóng gan.

5. Trong báo cáo điều tra năm 1964, ông Cam Vĩ Tùng đã phát biểu: Kim tuyến liên là một vị thuốc hết sức quý giá trong các tiệm thuốc bắc Đài Loan, là cây thuốc mang tính mát và có vị ngọt, thanh nhiệt, thanh huyết, bổ phổi, giải trừ u uất, thông trung khí, bồi dưỡng sức khỏe, chủ trị lục phủ ngũ tạng đẩy lùi tâm hỏa, nóng gan, bệnh phổi, thổ huyết, ho hen, đau ngực, đau lá lách, đau cuống họng, cao huyết áp, trẻ con chậm lớn, suy thận.

6. Trung y sư Lâm Minh Quyền đề cập đến dược tính của Kim tuyến liên giống như cây Nhất điểm hoàng: hạ sốt, giải nhiệt, giải trừ u uất phiền muộn, trị ho khan, đau ngực, đau họng, sắc uống với nước đường.

7. Trong đơn thuốc trị đau lá lách của trung y Trịnh Mộc Vinh có nói dùng Kim tuyến liên, Chi tử, rễ Đạm trúc diệp mỗi loại 20 phân sắc uống sẽ khỏi.

8. Đơn thuốc của ông Khưu Tải Phúc dùng Kim tuyến liên 20 phân sắc uống bằng nước đường làm mát máu nhuận phổi, trị bệnh phổi.

9. Đơn thuốc của ông Diệp Hải Ba dùng Kim tuyến liên 20 phân sắc uống bằng nước đường làm mát máu trị bệnh cao huyết áp.

10. Đơn thuốc của 3 ông Vương Chánh Hùng, Hà Thiên Tống, Trần Bỉnh Diêu dùng Kim tuyến liên 20 phân hầm với thịt nạc trị thổ huyết, bệnh phổi.

11.Trung y sư Thái Cát Hùng, Chủ tịch Hội đồng quản trị của Hội nghiên cứu cây thuốc thực vật thành phố Gia Nghĩa tuyên bố: Kim tuyến liên tiêu đờm, giải độc, chỉ huyết, hạ huyết áp, trợ tim, lợi tiểu, trị bệnh đái đường, chữa viêm gan, trị mụn dùng cây tươi sắc uống.