Video Kỹ Thuật Trồng Nấm Bào Ngư / Top 14 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Duhocaustralia.edu.vn

Kỹ Thuật Trồng Nấm Bào Ngư Nhật

Nấm bào ngư Nhật hay còn gọi là nấm bào ngư chân dày (cùi dày), nấm đùi gà, là một loại nấm ăn có mùi thơm của quả hạnh, vị ngọt và giòn của bào ngư, đặc biệt khi chế biến món ăn từ nấm bào ngư Nhật cùng với thịt hoặc thủy hải sản thì càng tuyệt vời hơn. Dinh dưỡng nấm bào ngư Nhật rất cao không kém hơn dinh dưỡng các sản phẩm từ động vật.

Kết quả phân tích cho thấy nấm bào ngư Nhật hàm lượng protein chiếm khoảng 25%, đặc biệt có chứa hơn 18 loại axit amin, ngoài ra còn có carbohy drate, nhiều vitamin và các khoáng chất khác.

Sử dụng nấm không những không tăng cân mà còn ngăn ngừa một số bệnh như: giảm cholesterol trong máu, tiểu đường, béo phì, đau bao tử, rối loạn gan, ung thư,v.v.., đồng thời người ăn nấm thường xuyên sẽ giúp cơ thể tăng tính miễn dịch, điều hòa huyết áp, dễ tiêu hóa và chống lão hóa.

Nấm bào ngư Nhật có thể bảo quản ở nhiệt độ 10-12°C kéo dài 3-5 ngày mà chất lượng thay đổi không đáng kể.

Nấm bào ngư Nhật thích hợp phát triển ở một biên độ nhiệt độ khá rộng: khi ra quả thể ở 25-30°C, thích hợp ẩm độ cao và ưa thoáng.

Độ ẩm cơ chất từ 65-68%, độ ẩm không khí lúc nuôi sợi 65-70%, độ ẩm không khí lúc ra quả thể là 85-95%.

pH: Môi trường nuôi trồng thích hợp cho nấm bào ngư Nhật từ 5-7, giai đoạn ươm tơ môi trường axit yếu nhưng khi ra quả thể pH từ 6-6,5.

Ánh sáng: Giai đoạn ra quả thể cần ánh sáng khuếch tán hơn khi nuôi sợi.

Nguyên liệu và thời vụ nuôi trồng:

Hầu hết tất cả các loại nguyên liệu chậm phân hủy: gồm mạt cưa, xơ dừa, bã mía… đều sử dụng được để trồng nấm. Tuy nhiên, cũng cần phải lựa chọn nguồn nguyên liệu dồi dào sẵn có và đặc biệt sẵn có dinh dưỡng có lợi cho nấm (như mùn cưa, bã mía).

Nấm bào ngư Nhật có biên độ rất rộng về nhiệt độ và ẩm độ vì vậy đối với thời tiết ở miền Nam nước ta sự chênh lệch nhiệt độ giữa hai mùa không cao nên đều trồng được, nhưng thời vụ thích hợp nhất là vào mùa mưa, vì lúc này độ ẩm không khí tương đối cao sẽ tiết kiệm được công tưới.

3) Xử lý nguyên liệu, phối trộn nguyên liệu, đóng túi, khử trùng

Chuẩn bị nguyên liệu:

Nguyên liệu trước khi đưa vào trồng nấm phải qua bước lựa chọn và xử lý:

Đối với nguyên liệu mùn cưa nên chọn mùn cưa cây gỗ mềm, không có chứa tinh dầu, tốt nhất nên dùng mùn cưa cây cao su, bồ đề.

Nguyên liệu bổ sung: cám bắp, cám gạo, bột nhẹ (CaCO 3) (riêng cám bắp, cám gạo phải là loại mới, không có mùi hôi).

Nước vôi: 1-2% (10 lít nước 100-200 gr vôi bột).

Chú ý: Nước đưa vào xử lý phải là nước sạch

Nguyên liệu mùn cưa, bã mía trước khi ủ phải phơi khô, nếu chưa sử dụng phải bảo quản trong kho.

– Đối với mùn cưa: mùn cưa phải phơi khô trước khi đưa vào bảo quản, càng để lâu càng tốt cho trồng nấm. Vì khi nguyên liệu ẩm thường có nhiều dinh dưỡng thích hợp với nấm mốc làm nhiễm bịch phôi. Mùn cưa mới, tế bào chưa chết hoàn toàn, có thể còn tồn tại các chất kháng nấm, tơ nấm khó phân hủy (thủy phân chậm) năng suất thấp, mất nhiều thời gian nấm mới mọc. Khi mùn cưa để lâu, tế bào của cây đã chết, sợi nấm mọc dễ dàng hơn. Sau khi lựa chọn, mùn cưa được đưa vào ủ theo công thức sau:

Mùn cưa khô: 100kg

Nước vôi pha loãng (pH:13): 20-30 lít

Sau khi làm ẩm, cho mùn cưa vào đống, quấn nilon xung quanh, giữa đống mùn cưa có cọc thông khí.

Thời gian ủ từ 6-7ngày, giữa chu kỳ có đảo đống ủ. Nhiệt độ đống ủ 70-75°C

Đối với bã mía: sử dụng những loại bã mía không quá ướt, nên phơi khô nguyên liệu từ 12-24 giờ trước khi ủ. Công thức ủ bã mía cũng giống như ủ mùn cưa, nhưng thời gian ủ bã mía là 12-14 ngày. Tuy lượng nước và thời gian ủ cả hai loại nguyên liệu như trên, nhưng cũng còn tùy thuộc vào nguyên liệu ban đầu khô hay ướt mà ta tự điều chỉnh cho thích hợp.

Sau khi nguyên liệu được xử lý (thời gian nhanh chậm tùy thuộc vào từng loại cơ chất khác nhau) nên phối trộn nguyên liệu với nhiều thành phần dinh dưỡng khác.

Phối trộn nguyên liệu: Nguyên liệu trộn đều, làm ẩm, trộn nhiều lần cho nước ngấm đều trong nguyên liệu. Ẩm độ của nguyên liệu khoảng 65-70%, nghĩa là nếu nấm nguyên liệu (sau khi làm ẩm) trong tay bóp lại thì nguyên liệu sẽ kết khối nhưng nước không nhỏ giọt ra là được.

Công thức phối trộn:

Cách trộn nguyên liệu: nguyên liệu sau khi ủ được trộn với các phụ gia theo tỷ lệ như trên, sau đó đảo đều và kiểm tra độ ẩm lần nữa trước khi đưa vào đóng túi.

Túi pp dày khoảng 0,5mm và có kích thước 19 x 36 cm, cổ nút, thun, bông, nắp đậy.

– Cách đóng túi:

Dùng túi pp, cho nguyên liệu đã làm ẩm vào, nện chặt vừa phải. Nên đóng túi đồng loạt cho đến hết nguyên liệu, không để thừa nguyên liệu qua đêm. Nếu không đóng hết thì phải đưa phần nguyên liệu thừa vào đống ủ để ủ tiếp. Mỗi túi thường chứa khoảng 1,1-1,2kg nguyên liệu. Dùng giấy bìa cứng khoanh tròn làm cổ bịch tra vào làm cổ. Sau đó, dùng 1 cây dài tròn vót nhọn đầu, xoi 1 lỗ ở giữa xuống tận đáy bịch. Sau đó, dùng bông gòn không thấm làm nút bông, dùng giấy bao bên ngoài nút bông hoặc có nắp chụp.

Sau khi đóng túi, đưa đi khử trùng trong các nồi hấp. Phương pháp đơn giản nhất là hấp cách thủy trong thùng phuy. Thời gian từ 10-12 giờ, nhiệt độ trong túi nguyên liệu đạt từ 95°C-100°C.

Lò khử trùng: Có kích thước lớn nhỏ tùy thuộc vào số lượng nguyên liệu và điều kiện vật chất.

Túi hấp xong phải có mùi thơm, không bị chua do lên men, nút bông chặt và không ướt. Sau đó chuyển bịch vào phòng cấy đã thanh trùng. Để nguội 24-36 giờ rồi tiến hành cấy giống.

Cấy giống que: Sau khi túi phôi đưa vào phòng cấy, dùng pince kẹp cây meo giống cho vào túi.

Cấy bằng hạt: Phôi đã được làm nguội đưa vào phòng cấy, dùng que sắt khều nhẹ giống từ túi nilon hoặc từ lọ thủy tinh sang túi phôi lắc đều lên trên bề mặt túi. Lượng giống cấy cứ một lọ hoặc một túi giống cấy 200g được 25-30 túi phôi.

Chú ý: Chọn giống cấy phải đúng tuổi, lúc bào tử (màu đen) mới xuất hiện khoảng 1/2 lọ hay túi, không nên chọn meo quá già hoặc quá non.

Sau khi cấy giống phải đưa vào nhà nuôi sợi.

– Nuôi sợi: Phòng nuôi sợi có nhiệt độ thích hợp từ 25-28°C, độ ẩm không khí 65-70%. Nhà kín gió nhưng thoáng. Từ 25-30 ngày tơ nấm sẽ ăn kín túi. Khi sợi nấm đã trắng túi cần tăng độ thông thoáng và ánh sáng nhằm mục đích thay đổi môi trường để kích thích tơ nấm kết hợp với nhau nhanh hơn, chuẩn bị hình thành quả thể.

– Chăm sóc: Sau khi tơ nấm ăn kín túi, tháo bỏ bông mục đích là giúp nấm ra trên cổ và tạo được kích thước cũng như hình dạng của tai nấm đồng đều hơn. Khi nấm ra, ở giai đoạn này rất dễ ảnh hưởng do các điều kiện ngoại cảnh. Vì vậy, nhà trồng phải đáp ứng các điều kiện như sau: giữ ẩm tốt ở 85-95%, nhiệt độ là 25-30°C, thoáng, kín gió và sạch sẽ.

Chú ý: Phải vệ sinh nhà thật sạch (dùng vôi bột hoặc nước vôi đã pha loãng rắc tưới đều nền nhà trồng) trước khi đưa túi vào.

Sau khi tháo bông 7 ngày đầu không tưới, nhưng sau 7 ngày (kể từ lúc tháo bông) thì nấm xuất hiện quả thể trên cổ túi. Khi đó, nấm rất cần nước, vì vậy vừa phun sương trước miệng cổ túi phôi vừa tạo ẩm môi trường xung quanh (2-3 lần trong ngày). Từ lúc ra đinh ghim đến lúc thu hái là 4 ngày (khi mũ nấm từ màu xám sang trắng xám, đường kính mũ nấm gấp đôi chân nấm).

– Thu hái nấm: Thu hoạch nấm phải đúng tuổi không nên non hoặc già quá.

Cách thu hái nấm: Dùng tay nắm lấy phần cuống nấm kéo nhẹ và lấy hết cả chân nấm. Khi hái xong đợt 1 phải quan sát và thu hết những chân nấm còn sót lại bên trong cổ túi phôi. Sau đó, tiếp tục chăm sóc như lúc ban đầu và cứ như vậy lặp lại từ 3-4 lần là kết thúc quá trình thu hái. Tổng thời gian thu hái nấâm từ 65-75 ngày, mỗi túi thu hái được 3-4 đợt và mỗi đợt cách nhau 20-25 ngày. Sau khi thu hoạch hết nấm, túi phôi được ủ làm phân bón.

Hiện nay, Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng và Dịch vụ Khoa học Công nghệ Tiền Giang đã phân lập và nghiên cứu thành công quy trình trồng nấm bào ngư Nhật năng suất đạt 43-45% so với nguyên liệu đưa vào nuôi trồng. Hướng tới Trung tâm sẽ có những nghiên cứu sâu hơn về giống cũng như kỹ thuật nuôi trồng nhằm nâng cao năng suất cũng như phẩm chất của loại nấm này.

Kỹ Thuật Trồng Nấm Bào Ngư Nhật (Nấm Cùi Dày)

Nấm bào ngư Nhật hay còn gọi là nấm bào ngư chân dày (cùi dày), nấm đùi gà, là một loại nấm ăn có mùi thơm của quả hạnh, vị ngọt và giòn của bào ngư, đặc biệt khi chế biến món ăn từ nấm bào ngư Nhật cùng với thịt hoặc thủy hải sản thì càng tuyệt vời hơn. Dinh dưỡng nấm bào ngư Nhật rất cao không kém hơn dinh dưỡng các sản phẩm từ động vật.

Kết quả phân tích cho thấy nấm bào ngư Nhật hàm lượng protein chiếm khoảng 25%, đặc biệt có chứa hơn 18 loại axit amin, ngoài ra còn có carbohy drate, nhiều vitamin và các khoáng chất khác.

Sử dụng nấm không những không tăng cân mà còn ngăn ngừa một số bệnh như: giảm cholesterol trong máu, tiểu đường, béo phì, đau bao tử, rối loạn gan, ung thư,v.v.., đồng thời người ăn nấm thường xuyên sẽ giúp cơ thể tăng tính miễn dịch, điều hòa huyết áp, dễ tiêu hóa và chống lão hóa.

Nấm bào ngư Nhật có thể bảo quản ở nhiệt độ 10-12oC kéo dài 3-5 ngày mà chất lượng thay đổi không đáng kể.

Điều kiện sống:

Nấm bào ngư Nhật thích hợp phát triển ở một biên độ nhiệt độ khá rộng: khi ra quả thể ở 25-300C, thích hợp ẩm độ cao và ưa thoáng.

Độ ẩm cơ chất từ 65-68%, độ ẩm không khí lúc nuôi sợi 65-70%, độ ẩm không khí lúc ra quả thể là 85-95%.

pH: Môi trường nuôi trồng thích hợp cho nấm bào ngư Nhật từ 5-7, giai đoạn ươm tơ môi trường axit yếu nhưng khi ra quả thể pH từ 6-6,5.

Ánh sáng: Giai đoạn ra quả thể cần ánh sáng khuếch tán hơn khi nuôi sợi.

Nguyên liệu và thời vụ nuôi trồng:

Hầu hết tất cả các loại nguyên liệu chậm phân hủy: gồm mạt cưa, xơ dừa, bã mía… đều sử dụng được để trồng nấm. Tuy nhiên, cũng cần phải lựa chọn nguồn nguyên liệu dồi dào sẵn có và đặc biệt sẵn có dinh dưỡng có lợi cho nấm (như mùn cưa, bã mía).

Nấm bào ngư Nhật có biên độ rất rộng về nhiệt độ và ẩm độ vì vậy đối với thời tiết ở miền Nam nước ta sự chênh lệch nhiệt độ giữa hai mùa không cao nên đều trồng được, nhưng thời vụ thích hợp nhất là vào mùa mưa, vì lúc này độ ẩm không khí tương đối cao sẽ tiết kiệm được công tưới.

3) Xử lý nguyên liệu, phối trộn nguyên liệu, đóng túi, khử trùng

Chuẩn bị nguyên liệu:

Nguyên liệu trước khi đưa vào trồng nấm phải qua bước lựa chọn và xử lý:

Đối với nguyên liệu mùn cưa nên chọn mùn cưa cây gỗ mềm, không có chứa tinh dầu, tốt nhất nên dùng mùn cưa cây cao su, bồ đề.

Nguyên liệu bổ sung: cám bắp, cám gạo, bột nhẹ (CaCO3) (riêng cám bắp, cám gạo phải là loại mới, không có mùi hôi).

Nước vôi: 1-2% (10 lít nước 100-200 gr vôi bột).

Chú ý : Nước đưa vào xử lý phải là nước sạch

a) Xử lý nguyên liệu:

Nguyên liệu mùn cưa, bã mía trước khi ủ phải phơi khô, nếu chưa sử dụng phải bảo quản trong kho.

– Đối với mùn cưa: mùn cưa phải phơi khô trước khi đưa vào bảo quản, càng để lâu càng tốt cho trồng nấm. Vì khi nguyên liệu ẩm thường có nhiều dinh dưỡng thích hợp với nấm mốc làm nhiễm bịch phôi. Mùn cưa mới, tế bào chưa chết hoàn toàn, có thể còn tồn tại các chất kháng nấm, tơ nấm khó phân hủy (thủy phân chậm) năng suất thấp, mất nhiều thời gian nấm mới mọc. Khi mùn cưa để lâu, tế bào của cây đã chết, sợi nấm mọc dễ dàng hơn. Sau khi lựa chọn, mùn cưa được đưa vào ủ theo công thức sau:

Mùn cưa khô: 100kg

Nước vôi pha loãng (pH:13): 20-30 lít

Sau khi làm ẩm, cho mùn cưa vào đống, quấn nilon xung quanh, giữa đống mùn cưa có cọc thông khí.

Thời gian ủ từ 6-7ngày, giữa chu kỳ có đảo đống ủ. Nhiệt độ đống ủ 70-750C

Đối với bã mía: sử dụng những loại bã mía không quá ướt, nên phơi khô nguyên liệu từ 12-24 giờ trước khi ủ. Công thức ủ bã mía cũng giống như ủ mùn cưa, nhưng thời gian ủ bã mía là 12-14 ngày. Tuy lượng nước và thời gian ủ cả hai loại nguyên liệu như trên, nhưng cũng còn tùy thuộc vào nguyên liệu ban đầu khô hay ướt mà ta tự điều chỉnh cho thích hợp.

b) Phối trộn nguyên liệu

Sau khi nguyên liệu được xử lý (thời gian nhanh chậm tùy thuộc vào từng loại cơ chất khác nhau) nên phối trộn nguyên liệu với nhiều thành phần dinh dưỡng khác.

Phố i trộn nguyên liệu: Nguyên liệu trộn đều, làm ẩm, trộn nhiều lần cho nước ngấm đều trong nguyên liệu. Ẩm độ của nguyên liệu khoảng 65-70%, nghĩa là nếu nấm nguyên liệu (sau khi làm ẩm) trong tay bóp lại thì nguyên liệu sẽ kết khối nhưng nước không nhỏ giọt ra là được.

Công thức phối trộn:

100 kg nguyên liệu đã tạo ẩm

2% cám bắp

2% cám gạo

1% bột nhẹ

Cách trộn nguyên liệu: nguyên liệu sau khi ủ được trộn với các phụ gia theo tỷ lệ như trên, sau đó đảo đều và kiểm tra độ ẩm lần nữa trước khi đưa vào đóng túi.

c) Đóng túi nguyên liệu:

Túi pp dày khoảng 0,5mm và có kích thước 19 x 36 cm, cổ nút, thun, bông, nắp đậy.

– Cách đóng túi:

Dùng túi pp, cho nguyên liệu đã làm ẩm vào, nện chặt vừa phải. Nên đóng túi đồng loạt cho đến hết nguyên liệu, không để thừa nguyên liệu qua đêm. Nếu không đóng hết thì phải đưa phần nguyên liệu thừa vào đống ủ để ủ tiếp. Mỗi túi thường chứa khoảng 1,1-1,2kg nguyên liệu. Dùng giấy bìa cứng khoanh tròn làm cổ bịch tra vào làm cổ. Sau đó, dùng 1 cây dài tròn vót nhọn đầu, xoi 1 lỗ ở giữa xuống tận đáy bịch. Sau đó, dùng bông gòn không thấm làm nút bông, dùng giấy bao bên ngoài nút bông hoặc có nắp chụp.

– Khử trùng:

Sau khi đóng túi, đưa đi khử trùng trong các nồi hấp. Phương pháp đơn giản nhất là hấp cách thủy trong thùng phuy. Thời gian từ 10-12 giờ, nhiệt độ trong túi nguyên liệu đạt từ 950C-1000C.

Lò khử trùng: Có kích thước lớn nhỏ tùy thuộc vào số lượng nguyên liệu và điều kiện vật chất.

Túi hấp xong phải có mùi thơm, không bị chua do lên men, nút bông chặt và không ướt. Sau đó chuyển bịch vào phòng cấy đã thanh trùng. Để nguội 24-36 giờ rồi tiến hành cấy giống.

4) Cấy giống và nuôi sợi túi phôi

– Cấy giống

Cấy giống que: Sau khi túi phôi đưa vào phòng cấy, dùng pince kẹp cây meo giống cho vào túi.

Cấy bằng hạt: Phôi đã được làm nguội đưa vào phòng cấy, dùng que sắt khều nhẹ giống từ túi nilon hoặc từ lọ thủy tinh sang túi phôi lắc đều lên trên bề mặt túi. Lượng giống cấy cứ một lọ hoặc một túi giống cấy 200g được 25-30 túi phôi.

Chú ý : Chọn giống cấy phải đúng tuổi, lúc bào tử (màu đen) mới xuất hiện khoảng 1/2 lọ hay túi, không nên chọn meo quá già hoặc quá non.

Sau khi cấy giống phải đưa vào nhà nuôi sợi.

– Nuôi sợi: Phòng nuôi sợi có nhiệt độ thích hợp từ 25-280C, độ ẩm không khí 65-70%. Nhà kín gió nhưng thoáng. Từ 25-30 ngày tơ nấm sẽ ăn kín túi. Khi sợi nấm đã trắng túi cần tăng độ thông thoáng và ánh sáng nhằm mục đích thay đổi môi trường để kích thích tơ nấm kết hợp với nhau nhanh hơn, chuẩn bị hình thành quả thể.

– Chăm sóc: Sau khi tơ nấm ăn kín túi, tháo bỏ bông mục đích là giúp nấm ra trên cổ và tạo được kích thước cũng như hình dạng của tai nấm đồng đều hơn. Khi nấm ra, ở giai đoạn này rất dễ ảnh hưởng do các điều kiện ngoại cảnh. Vì vậy, nhà trồng phải đáp ứng các điều kiện như sau: giữ ẩm tốt ở 85-95%, nhiệt độ là 25-300C, thoáng, kín gió và sạch sẽ.

Chú ý : Phải vệ sinh nhà thật sạch (dùng vôi bột hoặc nước vôi đã pha loãng rắc tưới đều nền nhà trồng) trước khi đưa túi vào.

Sau khi tháo bông 7 ngày đầu không tưới, nhưng sau 7 ngày (kể từ lúc tháo bông) thì nấm xuất hiện quả thể trên cổ túi. Khi đó, nấm rất cần nước, vì vậy vừa phun sương trước miệng cổ túi phôi vừa tạo ẩm môi trường xung quanh (2-3 lần trong ngày). Từ lúc ra đinh ghim đến lúc thu hái là 4 ngày (khi mũ nấm từ màu xám sang trắng xám, đường kính mũ nấm gấp đôi chân nấm).

– Thu hái nấm: Thu hoạch nấm phải đúng tuổi không nên non hoặc già quá.

Cách thu hái nấm: Dùng tay nắm lấy phần cuống nấm kéo nhẹ và lấy hết cả chân nấm. Khi hái xong đợt 1 phải quan sát và thu hết những chân nấm còn sót lại bên trong cổ túi phôi. Sau đó, tiếp tục chăm sóc như lúc ban đầu và cứ như vậy lặp lại từ 3-4 lần là kết thúc quá trình thu hái. Tổng thời gian thu hái nấâm từ 65-75 ngày, mỗi túi thu hái được 3-4 đợt và mỗi đợt cách nhau 20-25 ngày. Sau khi thu hoạch hết nấm, túi phôi được ủ làm phân bón.

Hiện nay, Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng và Dịch vụ Khoa học Công nghệ Tiền Giang đã phân lập và nghiên cứu thành công quy trình trồng nấm bào ngư Nhật năng suất đạt 43-45% so với nguyên liệu đưa vào nuôi trồng. Hướng tới Trung tâm sẽ có những nghiên cứu sâu hơn về giống cũng như kỹ thuật nuôi trồng nhằm nâng cao năng suất cũng như phẩm chất của loại nấm này.

Kỹ Thuật Trồng Nấm Bào Ngư Xám Trên Mùn Cưa

Kỹ thuật trồng nấm bào ngư xám trên mùn cưa

Trong các loại thực phẩm hàng ngày của chúng ta như thịt, cá, trứng, rau, củ, quả… nấm được xem là thực phẩm chứa nhiều chất cần thiết cho con người. Phổ biến nhất hiện nay và được nhiều người ưa thích đó là nấm bào ngư.

Đây cũng loại nấm dễ trồng, dễ chăm sóc và thu hoạch khí hậu trồng nấm thích hợp từ 27 – 30 độ C, độ ẩm từ 60 – 70% do vậy phù hợp với nhiều khu vực tại nước ta. Tuy dễ trồng nhưng để có năng suất cao, phẩm chất tốt người trồng nấm cần nắm vững nhiều biện pháp kỹ thuật.

Chuẩn bị nơi trồng

Điểm quan trọng nhất trong quá trình trồng nấm bào ngư phải kể đến là quá trình hấp thanh trùng phôi nguyên liệu trồng. Qúa trình thanh trùng thường diễn ra 7 giờ trong nhiệt độ 100* C. Nếu không được thanh trùng hoặc làm không đúng cách tỷ lệ phôi nhiễm các loại nấm mốc rất cao gây giảm năng suất.

Nguyên liệu để trồng nấm bào ngư chủ yếu là mùn cưa hoặc các loại bã ngô được xay nhuyễn cho tơi xốp để giữ ẩm tốt tạo điều kiện cho nấm phát triển. Có một vài nơi trộn lẫn mùn cưa với rơm rạ 50% được cho là giúp cây dễ phát triển, cánh nầm giày đẹp không bị vỡ.

Chọn nơi thông thoáng, tránh xa các khu vực chăn nuôi

Mái lợp lá, nền trải một lớp cát để giữ ẩm là tốt nhất

Chiều cao 4 – 6 mét, chiều rộng tuỳ quy mô

Chừa ánh sáng khoảng 20% để nấm phát triển tốt

Kệ ngang dài 20cm, cách mặt đất 20cm.

Sau khi dùng vôi để xử lý nấm mốc trong nhà trồng, bà con tiến hành đặt các bịch phôi sao cho ít chiếm diện tích và dễ chăm sóc nhất. Nên chọn mua các bịch phôi có tơ nấm trắng chiếm 2/3 chiều dài bịch, các bịch phôi có mail nấm bị mốc xanh, mốc đen thì nên loại bỏ.

Chăm sóc nấm bào ngư

Chất phôi nấm lên kệ để từ 7 – 10 ngày sau rồi tiến hành tưới nước.

Chọn nước tưới sạch, không được nhiễm phèn. Khi tưới chỉ tưới phía sau, không nên tưới ở miệng sẽ khiến mail bị bệnh và úng nước.

Giữ ẩm độ trong nhà trồng nấm từ 65 – 70%, nhiệt độ từ 27 – 30 độ C.

Xung quanh nhà nên dùng lưới mỏng để che bớt ánh sáng và côn trùng xâm nhập làm hư nấm.

Tưới nước 3 lần mỗi ngày, mỗi lần từ 3 – 5 phút.

Trong thời gian nuôi trồng kiểm tra thường xuyên nếu có bịch bị mốc thì nên loại bỏ.

Sau khi mở nút phôi đến khi nấm mọc khoảng 5 ngày, khi thu hoạch nên chọn tay nấm có đường kính từ 4 – 5cm. Một tay cầm miệng nấm tay kia lắc đều để tránh làm hỏng phôi.

Dùng dao cạy gốc còn sót lại trên phôi nấm để nấm con đợt sau phát triển.

Nếu chăm sóc tốt mỗi phôi nấm cho thu hoạch từ 10 – 12 lần trong khoảng 4 tháng. Mỗi bịch cho thu hoạch từ 250 – 300 gam/bịch.

Sau khi thu hoạch xong đến khi trồng đợt nấm mới cách nhau khoảng 1 tháng, dùng vôi nông nghiệp khử trùng hết đẻ diệt khuẩn, dở màn che cho ánh nắng xâm nhập tạo độ thông thoáng.

Không nên sử dụng bất kỳ thuốc hoá học hay kích thích sinh trưởng nào. Nếu có bịch phôi bị nấm cần tiêu huỷ hoặc nếu bị nhẹ có thể dùng xi lanh bơm vôi trực tiếp vào vùng bị bệnh tránh lây lan.

Khâu thu hoạch cũng rất quan trọng, thu hoạch sau cho mỗi đợt trồng được kéo dài không nên để nấm quá già thông thường nên thu hoạch vào sáng sớm. Thao tác hái nấm là phải nhổ cả cụm không nên để phần chân nấm còn sót lại, nếu chân nấm sót sẽ gây nấm bệnh hoặc các đợt nấm sau sẽ giảm năng suất.

Sau khi thu hoạch nấm ta ngưng tưới nước từ 3 – 5 ngày sau đó tiến hành tưới lại nếu được chăm sóc tốt mỗi bịch cho thu hoạch từ 10 – 12 đợt mỗi đợt từ 3,5 – 4 tháng.

Nấm là một loại thực phẩm quý hiếm có thể thực hiện được nhiều món ăn giàu dinh dưỡng. Vì vậy thị trường tiêu thụ ngày càng đa dạng góp phần mang lại thu nhập bền vững cho nông hộ.

Quy trình trồng nấm linh chi đỏ làm giàu bền vững

Cách trồng nấm rơm trong nhà tăng gấp đôi năng suất

Hướng Dẫn Kỹ Thuật Trồng Nấm Bào Ngư Trên Mùn Cưa

Nấm bào ngư là tên dùng chung cho các loài thuộc giống Pleurotus, trong đó có 2 nhóm lớn: nhóm chịu nhiệt (nấm kết quả thể từ 20oC – 30oC) và nhóm chịu lạnh (nấm kết quả thể từ 15oC – 25oC). Nấm bào ngư còn có tên là nấm sò, nấm hương trắng, nấm dai … I. Đặc điểm sinh học:

* Nấm bào ngư là tên dùng chung cho các loài thuộc giống Pleurotus, trong đó có 2 nhóm lớn: nhóm chịu nhiệt (nấm kết quả thể từ 20oC – 30oC) và nhóm chịu lạnh (nấm kết quả thể từ 15oC – 25oC). Nấm bào ngư còn có tên là nấm sò, nấm hương trắng, nấm dai …

* Chu trình sống bắt đầu từ đảm bào tử hữu tính nẩy mầm cho hệ sợi tơ dinh dưỡng sơ cấp và thứ cấp, “kết thúc” bằng việc hình thành cơ quan sinh sản là tai nấm. tai nấm lại sinh đảm bào tử và chu trình sống lại tiếp tục.

* Quả thể nấm phát triển qua nhiều giai đoạn:

* Nhiệt độ: Nấm bào ngư mọc nhiều ở nhiệt độ tương đối rộng. Ở giai đoạn ủ tơ, một số loài cần nhiệt độ từ 20 – 30oC, một số loài khác cần từ 27 – 32oC, thậm chí 35oC như loài P.tuber-regium. Nhiệt độ thích hợp để nấm ra quả thể ở một số loài cần từ 15 – 25oC, số loài khác cần từ 25 – 32oC.

* Độ ẩm: độ ẩm rất quan trọng đối với sự phát triển tơ và quả thể của nấm. Trong giai đoạn tăng trưởng tơ, độ ẩm nguyên liệu yêu cầu tử 50 – 60%, còn độ ẩm không khí không được nhỏ hơn 70%. Ở giai đoạn tưới đoán nấm ra quả thể, độ ẩm không khí tốt nhất là 70 – 95%. Ở độ ẩm không khí 50%, nấm ngừng phát triển và chết, nếu nấm ở dạng phễu lệch và dạng lá thì sẽ bị khô mặt và cháy vàng bìa mũ nấm. Nhưng nếu độ ẩm cao trên 95%, tai nấm dễ bị nhũn và rũ xuống.

* pH: Nấm bào ngư có khả năng chịu đựng sự giao động pH tương đối tốt. Tuy nhiên pH thích hợp đối với hầu hết các loài nấm bào ngư trong khoảng 5 – 7.

* Ánh sáng: yếu tố này chỉ cần thiết trong giai đoạn ra quả thể nhằm kích thích nụ nấm phát triển. Nhà nuôi trồng nấm cần có ánh sáng khoảng 200 – 300 lux (ánh sáng khuếch tán – ánh sáng phòng).

* Thông thoáng: Nấm cần có oxy để phát triển vì vậy nhà trồng cần có độ thông thoáng vừa phải, nhưng phải tránh gió lùa trực tiếp.

– Thời vụ nuôi trồng: Nhìn chung với khí hậu miền Nam nấm bào ngư có thể trồng quanh năm, nhất là đối với nhóm ưa nhiệt và một số giống mới thích hợp gần đây. Đây là một nghề thích hợp cho bà con nông dân trong mùa nước nổi.

– Nguyên liệu trồng nấm bào ngư: Nấm bào ngư có thể trồng trên nhiều loại nguyên liệu như: gỗ khúc, mạc cưa, rơm rạ, bả mía, võ cây đậu, cùi bắp,…. nói chung nấm bào ngư có khả năng sử dụng tốt mọi nguồn hydrat carbon, nhất là cellulose. Hoạt động này nhờ vào men thuỷ giải mạnh và đa dạng như: cellulase thủy giải cellulose; hemicellulase thủy giải hemicellulose; xylanase thủy giải xylan; laccase thủy giải lignin … Tỉ lệ C/N tốt nhất ở khoảng 20 0 30.

II. Nuôi trồng nấm bào ngư trên bịt phôi đã cấy meo:

Để giảm bớt những công đoạn phức tạp ta có thể nuôi trồng nấm bào ngư trên những bịch phôi đã xử lý cấy meo giống vào hai giai đoạn cuối: nuôi ủ tơ nấm và tưới đón thu hoạch.

1/ Giai đoạn nuôi ủ tơ nấm:

Yêu cầu đối với nơi ủ tơ:

– Sạch và thoáng mát. Định kỳ được làm vệ sinh bằng formol, nước vôi trong.

– Ít ánh sáng nhưng không tối.

– Không bị dột mưa hoặc nắng chiếu.

– Không để chung với đồ đạc sinh hoạt gia đình, vật liệu, sách vở.

– Không ủ chung với giàn nấm đang tưới hoặc đang mới thu hoạch xong.

– Bịch ủ có thể xếp trên kệ hoặc treo trên giàn. Không chồng chất lên nhau quá nhiều lớp. Không xếp vào ngăn, tủ quá kín làm tơ bị ngộp.

– Cứ 5 – 7 ngày ta kiểm tra một lần nhằm phát hiện những bịch nhiễm mốc xanh để huỷ bỏ, không để lây nhiễm sang các bịch khác.

Trong thời gian nuôi ủ tơ nấm, không cần tưới thường xuyên mà chỉ tưới ở nền, xung quanh vách sao cho đảm bảo nhiệt độ và ẩm độ.

Thời gian nuôi ủ tơ nấm bào ngư khoảng 25 – 30 ngày.

2/ Giai đoạn tưới đón – thu hoạch (ra quả thể):

Sau khi ủ tơ lan trắng đến đáy bịch, để loại bỏ bụi bám bên ngoài bịch ta cần nhúng bịch vào xô nước lạnh đến cổ rồi rút ra cho sạch bụi và cũng tạo sốc nhiệt trước khi treo trong nhà trồng nấm để tưới đón – thu hoạch.

Yêu cầu đối với nhà trồng nấm:

– Không cần cao (vì khó giữ ẩm) thường từ 2,2 – 2,8m. không nên che rợp quá (thiếu ánh sáng và dễ bị bệnh). Diện tích vừa đủ để treo 1 đợt bịch để đảm bảo độ ẩm. Dây cách dây khoảng 3,5 tất. Mỗi dây treo 8 – 10 bịch nằm ngang, bịch dưới cùng cách mặt nền chừng 3 tất. Bố trí lối đi giữa các các hàng dây treo bịch chừng 6 tất sao cho có thể với tay vừa đủ để chắm sóc và thu hoạch (mỗi bên bố trí 3 hàng dây treo bịch).

– Trời nóng nên làm vách hở chân để thông thoáng, trờ lạnh cần che kín chân nhất là ban đêm để giữ ấm cho nấm. Nhà có khả năng giữ ẩm, không bị gió lùa nhưng không bí quá làm ngộp nấm.

– Sạch sẽ và đủ ánh sáng nhưng không bị chiếu nắng. Nên bao lưới nylon ở các chỗ hở để ngăn côn trùng hại nấm.

– Gần nguồn nước tưới và có chổ thoát nước. Không gần nơi khói bụi và các nguồn nước ô nhiễm như ổ rác, mương cống, chuồng gà, chuồng heo, bịch nấm hư, … vì nấm rất nhạy cảm với môi trường.

– Cần khử trùng nhà nấm cho sạch sẽ trước khi treo bịch nấm.

– Nhiệt độ thích hợp: 20 – 30oC. độ ẩm không khí cần trong khoảng 80 – 90%.

Bịch phôi sau khi làm sạch như đã nói ở phần trên được treo lên giàn để tưới đón nấm, nhớ rút gòn ở cổ bịch để nấm mọc ra từ đó.

Cách tưới: không tưới thẳng lên bịch phôi mà phun xịt tạo mưa nhẹ rơi từ trên xuống, tưới ướt các vách, nóc và nên nhà để tạo độ ẩm không khí cần thiết cho nhà trồng nấm. Tuỳ theo thời tiết mà tưới nhiều hay ít để tạo ẩm cho nhà trồng nấm, mỗi ngày tưới 2 – 4 lần (khi mưa dầm ẩm ướt, không cần tưới). Lưu ý là không để giọt nước bắn thẳng vào nụ nấm mà làm hư hỏng nó.

Việc thu hái nấm bào ngư nên tiến hành ở giai đoạn trưởng thành, đó là lúc tai nấm chuyển từ dạng phễu lệch sang dạng lá lục bình (mũ nấm mỏng lại và căng rộng ra, mép hơi quằn xuống – nếu mép cong lên là nấm già). Nấm thu ở giai đoạn này, ngoài chất lượng dinh dưỡng cao, ít bị hư hỏng (không gãy bìa mép khi thu hái) và dễ bảo quản (giữ được lâu ở dạng tươi).

Thuỳ theo giống nấm, có thể thu hoạch khoảng 6 – 12 đợt, mỗi đợt cách nhau chừng 15 – 20 ngày trong khoảng 3 – 8 tháng (giống bào ngư Nhật khoảng hơn 8 tháng) khi bịch đen và tóp lại thì ngưng. Năng suất thu hoạch nấm dao động trong khoảng 40 – 60% so với trọng lượng bịch.

Chú ý: khi vào nhà trồng nấm phải mang khẩu trang để tránh bào tử nấm bay vào mũi gây hại đường hô hấp.

3/ Một số điểm lưu ý khi trồng nấm bào ngư:

– Nhạy cảm với môi trường: ngoài các tác nhân ảnh hưởng như nhiệt độ, độ ẩm, pH, ánh sáng,…. nấm bào ngư đặc biệt nhạy cảm với tác nhân gây ô nhiễm môi trường như hóa chất, thuốc trừ sâu, các kim loại nặng, kể cả trong nguyên liệu cũng như không khí và môi trường xung quanh khu vực nuôi trồng. Trong điều kiện ô nhiễm trên, tai nấm sẽ bị biến dạng hoặc ngừng tạo quả thể. Vì vậy, khi nấm bào ngư phát triển tốt thì nấm thu hoạch được chắc chắn sẽ là một loại ra sạch.

– Dịch bệnh gây hại nấm: chủ yếu là mốc xanh Trichoderma và ấu trùng ruồi nhỏ. Đối với mốc xanh, có thể hạn chế bằng cách khử trùng tốt nguyên liệu hoặc nâng pH. Đối với ấu trùng ruồi nhỏ, để ngăn ngừa nhà trồng cần có lưới chắn và vệ sinh nhà trại, không cho ổ dịch phát sinh.

– Dị ứng do bào tử nấm bào ngư: nếu hít phải có triệu chứng khó thở, có nhiều vết đỏ ở tay, nhức đầu, ho và sốt. Khắc phục bằng cách đeo khẩu trang khi vào nhà nuôi trồng, tưới ẩm cho nhà trồng.

III. Bảo quản chế biến nấm bào ngư:

1/ Bảo quản nấm bào ngư:

Nấm bào ngư trong điều kiện được giữ lạnh ở 5 – 8oC, có thể giữ tươi từ 5 – 7 ngày. Ở điều kiện gia đình có tủ lạnh, nấm bào ngư nên được bảo quản ở ngăn rau.

Nấm bào ngư dễ làm khô, chỉ cần dàn mỏng để nơi thoáng có gió là nấm khô quéo lại. Nếu phơi và s6áy thì thời gian càng nhanh hơn. Nhiệt độ sấy khoảng 50oC. Thường nấm khô có mùi thơm đặc trưng hơn nhưng không giòn, ngọt như nấm tươi. Tỉ lệ nấm khô/nấm tươi là 1/10 (10 kg tươi thu được 1kg nấm khô)

2/ Chế biến nấm bào ngư:

– Đun sôi nước, thả nấm vào trong 1 – 2 phút, vớt ra ngâm trong nước lạnh, vớt ra để ráo nước cho nấm săn chắc và hết mùi ngái, rồi mới chế biến.

– Nấm chế biến thành nhiều món ăn: nấu cháo, nấu canh, xào mì với thịt, làm nem, chiên với trứng, muối xã ớt chiên, nướng, pha lẫn với giò nạt,…

– Với nấm sấy khô: rửa sạch trụng qua nước sôi 1 -2 phút để chế biến như nấm tươi.

Chú ý: không nên ăn quá nhiều nấm. Định lượng 200g/người/bữa. Không cần thêm bột ngọt vì nấm đã đủ ngọt, phải nấu chín, không nấu tái.

IV. Hiệu quả kinh tế:

Trồng nấm bào ngư trên bịch phôi đã xử lý cấy meo, hiệu quả kinh tế được tạm tính để tham khảo như sau:

– Vốn mua 1.000 bịch phôi 2.000đ/bịch x 1.000 bịch = 2.000.000đ (bịch 1,2kg)

– Vốn làm trại, dàn treo trồng nấm bằng tre, lá, tầm vông…. diện tích 2,6m x 5,2m khoảng 2.000.000đ, sử dụng trong 5 vụ, khấu hao 400.000đ/vụ.

– Tỉ lệ hư hỏng ước tính 10%. Năng suất trung bình 50% = 0,6kg nấm/bịch.

– Giá mua vào của đầu mối bán 10.000 – 14.000đ/kg, lấy trung bình 12.000đ/kg.

– Nước tưới, linh tinh khác 200.000đ (chưa tính công).

– Tổng chi phí: 2.000.000đ + 400.000đ + 200.000đ = 2.600.000đ.

– Tổng thu: 90% x 1.000 bịch x 0,6 x 12.000đ – 6.480.000đ.

– Lợi nhuận 3.880.000đ. Nếu trung bình 1 vụ 5 tháng thì tỉ lệ lãi 30%/tháng.

trồng nấm bào ngư trên bịch phôi đã xử lý cấy meo với mức đầu tư không nhiều kỹ thuật chăm sóc đơn giản, ít cực nhọc hơn so với một số nghề khác, lại cho lợi nhuận khá cao, có thể trồng quanh năm, ngay cả trong mùa nước nổi và trong mùa mưa dầm. Phải chăng đây là một nghề đầy triển vọng mà chúng ta cần quan tâm nhiều hơn nữa trong thời gian tới?

Nguồn: Nghenong