Tưới Nước Cho Lan Đai Châu / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Duhocaustralia.edu.vn

Nghiên Cứu Về Giá Thể Tưới Nước Ra Hoa Của Cây Lan Đai Châu

Lan đai châu – tình hình nghiên cứu tại Việt Nam.

1. Nghiên cứu về phân bố và nhân giống của lan đai châu.

Thực hiện đề tài điều tra sự phân bố của các loài hoa lan ở Việt Nam. Các tác giả Chu Thị Ngọc Mỹ và cs. (2009) [20] đã kết luận: Việt Nam được chia thành 6 vùng lan chính: Phía Tây Bắc Bộ; Phía Đông Bắc Bộ và Trung tâm Bắc Bộ; Bắc Trung Bộ; các tỉnh Trung Bộ; Tây Nguyên; Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Các tác giả này cũng đã thu thập được 1.035 chậu (giò) lan; gồm 50 giống thuộc 17 chi phong lan, địa lan Việt Nam. Một số loại hoa lan có khả năng thích ứng tốt với điều kiện khí hậu tại Gia Lâm – Hà Nội là: lan Đai Châu, Phi Điệp, Quế Lan Hương, Đuôi Cáo, Tam Bảo Sắc, Giáng Hương, Mặc Biên.

Hoa lan đai châu

Cây lan Đai Châu chưa được các tác giả Việt Nam nghiên cứu nhiều. Bước đầu các tác giả đã tập trung nghiên cứu biện pháp nhân giống từ hạt và từ mô trong ống nghiệm.

Hạt lan Đai Châu rất khó nảy mầm trong tự nhiên. Do vậy phương pháp nhân giống in vitro là phương pháp tối ưu để duy trì và phát triển loài lan này. Dương Mộng Hùng (2005) [11 ] đã nghiên cứu nhân giống lan Đai Châu bằng phương pháp nuôi cấy trong ống nghiệm, kết quả cho thấy: Thời điểm lấy quả lan Đai Châu là vào tháng 1 -3 năm sau, tốt nhất là vào cuối tháng 1. Môi trường Knudson C bổ sung thêm 0,2mg/l K và 0,5 mg/l BAP cho hệ số nhân thể chồi cao (4,0). Môi trường Knudson C bổ sung thêm 0,2 mg/l K và 0,2 mg/l NAA làm thể chồi nhanh hình thành cây lan Đai Châu con đủ tiêu chuẩn huấn luyện để cho ra vườn ươm.

Tác giả Phạm Thị Kim Hạnh và cs. (2008) [8] đã nghiên cứu nhân nhanh in vitro giống lan Đai Châu (Rhynchostylis gigantea (Lindley) Ridley) trong Bioreactor.

Cho kết quả về tỉ lệ nảy mầm cũng như tốc độ sinh trưởng của Võ Hà Giang và Ngô Xuân Bình (2010) [7] nghiên cứu nhân giống phong lan Đuôi Chồn cây con in vitro tốt hơn so với môi trường đặc. Giảm thời gian phát triển mầm (5 tuần) đồng thời kích thích sinh trưởng cây con in vitro. Khi cấy chuyển sang môi trường đặc sau 3 tháng đạt kích thước 5,8 lá; 5,2 rễ; dài lá 6,1 cm; rộng lá 1,35 cm; rễ mập 0,41 cm. Giá thể nuôi cây ngoài vườn ươm là: bọt xỉ than + than củi + tảo Đài Loan. (Rhynchotylis retusa (L.) Blume) bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào. Các tác giả đã nghiên cứu môi trường gieo hạt và nhân chồi cho kết quả: Bổ sung BAP 0,3 mg/l và kinetin 0,1 mg/l tỷ lệ hạt nảy mầm cao nhất, đạt 86,67%, bổ sung phối hợp kinetin và BAP cho hiệu quả cao nhất ở nồng độ 0,5mg Kinetin/l + 0,3 mg BAP/l, hệ số nhân chồi đạt 5-6 cụm chồi và 5,7 chồi/cụm.

2. Nghiên cứu về các biện pháp kỹ thuật.

2.1. Nghiên cứu về giá thể dành cho lan đai châu.

Lan Đai Châu có rễ to, dưới lớp vỏ rễ có rất nhiều tế bào diệp lục giúp cây có thể quang hợp từ rễ. Do vậy, giá thể trồng lan Đai Châu yêu cầu phải thoáng, rễ thoát nước. Theo kinh nghiệm truyền thống, người dân thường ghép trên thân gỗ của các cây đã chết tạo cây giả. Hoặc ghép khoảng 3, 5, 7, 9 ngọn trên 1 khúc gỗ tùy thuộc thân cây có kích thước to, nhỏ khác nhau. Trồng trên gỗ có ưu điểm là rễ cây có khả năng bám vào thân gỗ rất chặt và rễ được thông thoáng. Nhưng nhược điểm là vào mùa hè, rễ cây nhanh bị khô và khi vận chuyển những cục gỗ hay cây gỗ rất nặng nề, bất tiện. Hiện nay, do yêu cầu tính thẩm mỹ ngày càng cao và để thuận tiện cho việc vận chuyển nên cách trồng lan Đai Châu ngày càng đa dạng. Một số nhà vườn trồng trên chậu nhựa, chậu đất nung, chậu than gỗ với một số giá thể có kích thước to, thoát nước tốt, đảm bảo cho cây sinh trưởng, phát triển và có giá trị thẩm mỹ cao. Đặng Văn Đông và cs. (2010) [5] đã nghiên cứu ảnh hưởng của một số loại gốc ghép đến sinh trưởng, phát triển của lan Đai Châu cho thấy: trong các loại gỗ ghép cho lan Đai Châu (gỗ nhãn, gỗ vải, gỗ ổi) thì gỗ nhãn cho kết quả sinh trưởng, phát triển tốt nhất. Sau trồng một năm số lá tăng thêm 1,66 lá, đường kính chùm hoa 7,03 cm. Theo các tác giả thuộc Trung tâm Khoa học và sản xuất Nông – Lâm nghiệp Quảng Ninh (2013) sử dụng giá thể cho lan Đai Châu trên vườn sản xuất thì thân gỗ nhãn là thích hợp nhất cho lan Đai Châu [4].

Theo Phan Thúc Huân (1989) [10]. Giá thể là môi trường sống của lan, tùy thuộc vào từng loài lan, điều kiện trồng trọt để chọn giá thể phù hợp.

Giá thể được sử dụng phổ biến nhất trong việc trồng cây lan nói chung gồm xơ dừa, đá bọt, than củi, thân gỗ, gạch non, thân rễ cây dương xỉ, rong biển,… Giá thể trồng lan rất khác so với các loài cây khác, chúng được dùng để cải thiện độ ẩm và tác dụng cơ học hơn là cung cấp dinh dưỡng. Thành phần giá thể là điều kiện quyết định sự phát triển của lan, phương pháp ghép trên thân cây sống và thân cây chết thì giá thể chính là lớp vỏ của thân kí chủ. Nếu trồng chậu thì giá thể phải thật thoáng ở phần đáy để tránh úng. Ở vùng lạnh như Đà Lạt thì thành phần giá thể quá thông thoáng sẽ bất lợi cho sự phát triển của cây vì nhiệt độ lạnh ban đêm làm cho rễ bị tổn thương.

Do vậy, giá thể kín sẽ giúp cho rễ cây có điều kiện phát triển. Vụn dương xỉ có tác dụng trong điều kiện này. Xơ dừa là thành phần quan trọng trong giá thể trồng lan.

Theo Minh Trí và Xuân Giao (2010) [29]. xơ dừa có đặc điểm là hút nước chậm nhưng giữ ẩm lâu. Có chứa nhiều khoáng chất nuôi dưỡng cây lan. Tuy nhiên khi sử dụng cần xử lý ngâm nước để giảm lượng muối và cần chú ý chế độ tưới, không để bị ngập nước gây thối mục giá thể. Trần Văn Bảo (2001) [2] khẳng định rất nhiều loại vỏ cây có thể dùng làm giá thể trồng lan nhưng nên chọn loại vỏ cây lâu mục để không làm chậu lan bị đọng nước gây thối rễ. Vỏ cây cũng là nơi cư trú của nhiều loài sâu, bệnh, ốc sên. Do vậy cần kiểm tra giá thể thường xuyên để thay chậu, thay giá thể cho cây lan. Dương xỉ là loại giá thể này không bao giờ bị rêu bám, khả năng hút ẩm khá tốt. Tuy nhiên nếu không được phối trộn với các loại giá thể khác thì chậu lan rất dễ bị úng nước, gây thối đầu rễ cây lan (Nguyễn Công Nghiệp, 2000) [21 ]. Rong biển được sử dụng khá phổ biến trong nuôi trồng các loài lan hiện nay ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam.

Hoàng Ngọc Thuận (2000) [24] cho rằng: rong biển có ưu điểm giữ ẩm rất tốt, nhẹ, mềm, tiện lợi cho việc vận chuyển với số lượng lớn các chậu lan. Đặc biệt đối với lan công nghiệp như Hồ Điệp ( Theo Việt Chương, Nguyễn Việt Thái (2002) [3] và Nguyễn Công Nghiệp (2000) [21 ], có thể sử dụng than hoa, gạch non, rêu, xơ dừa, rễ lục bình, vỏ thông để trồng hoa lan. Đây là những vật liệu dễ kiếm ở điều kiện Việt Nam. Có thể dùng một loại giá thể hoặc phối trộn các loại giá thể trên với nhau để trồng lan tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng vùng, từng loài lan cũng như độ tuổi của lan. Phalaenopsis), Lan Cát ( Cattleya), Vũ Nữ (Oncidium), lan Đai Châu ( Rhynchostylis) và một số loài lan con mới ra ngôi.

2.2. Các nghiên cứu về phân bón

Đặng Văn Đông và cs. (2010) [5] đã nghiên cứu ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật đến sinh trưởng, phát triển và chất lượng hoa của lan Đai Châu ( Rhynchostylis gigantea (Lindley) Ridley) tại Gia Lâm, Hà Nội kết quả cho thấy: sử dụng phân bón lá Plant Soul 3 (tỷ lệ N:P:K là 20:20:20) cho kết quả tốt nhất đối với lan Đai Châu thể hiện qua các chỉ tiêu động thái ra lá rất mạnh, lá màu xanh đậm, số rễ nhiều, rễ to khỏe. Đặc biệt tỷ lệ cây mang hoa lớn (91,76%).

Theo các tác giả Trung tâm Khoa học và sản xuất Nông – Lâm nghiệp Quảng Ninh thì phân bón thích hợp cho lan Đai Châu giai đoạn vườn sản xuất là phân bón Atonik 1.8DD, 1ml/l kết hợp với NPK 1g/l cho số lá cao nhất đạt 7,8 lá/cây, chiều dài lá 10cm, chiều rộng lá 2,56cm (Trần Thị Doanh, 2013) [4].

Khi nghiên cứu về phân bón cho lan Đai Châu, tác giả Trần Minh Hiền Trang (2012) [28], cho rằng dung dịch dinh dưỡng đạm động vật cho kết quả tốt nhất ở cả 2 giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng và ra hoa của cây. Trên cơ sở nhập nội, khảo nghiệm và đánh giá các mẫu giống, kết hợp với việc nhân giống. Bộ môn Đột biến và Ưu thế lai – Viện Di truyền Nông nghiệp đã đề xuất các biện pháp về giá thể, bón phân và kỹ thuật chăm sóc. (Nguyễn Thị Kim Lý, 2009) [19] Các tác giả cho rằng, nên tưới nước phân cho lan vào buổi sáng sớm hay lúc chiều mát, không nên tưới phân vào buổi trưa. Bình thường tưới 1 lần trong 1 tuần, nếu vườn lan râm mát thì khoảng cách dài hơn, 10 – 15 ngày/lần. Ngược lại, vườn lan có nhiều ánh sáng có thể tưới 2 lần/tuần. Sau khi tưới phân nên tăng lượng nước tưới của ngày sau đó để rửa bớt muối còn đọng lại gây ảnh hưởng bất lợi cho lan.

Theo Nguyễn Xuân Linh (2005) [1 7], lan rất cần bón phân nhưng không chịu được nồng độ dinh dưỡng cao. Vì vậy bón phân cho lan phải thực hiện thường xuyên và tốt nhất là phun phân qua lá.

Nồng độ và liều lượng phun tuỳ thuộc tuổi và thời kỳ phát triển của cây lan. Đối với lan dưới 6 tháng tuổi phun phân N:P:K loại 30:15:10 nồng độ 500 ppm (0,5 g/l) 7 ngày 1 lần. Đối với lan 6-12 tháng, phun phân N:P:K loại 30:15:10 nồng độ 2000 ppm (2g/l) định kỳ 7 ngày/lần. Đối với lan 12-18 tháng phun phân N:P:K loại 10:30:20 nồng độ 3000 ppm (3 g/l) định kỳ 7 ngày/lần. Khi vòi hoa xuất hiện phun phân N:P:K loại 15:20:25 nồng độ 2000 ppm tưới 7-10 ngày 1 lần hoa sẽ mập hơn, bền và màu sắc đặc trưng. Khi hoa gần tàn cây có hiện tượng yếu đi nên cắt ngay cành hoa và tưới phân N:P:K (30:10:10) để nuôi dưỡng cây cho mùa ra hoa sau.

Nguyễn Công Nghiệp (2000) [21 ] đã kết luận: mùa tăng trưởng của phong lan nên dùng phân tổng hợp N:P:K loại 30:10:10, khi chớm nở hoa phải dùng loại phân có nồng độ lân cao để màu sắc hoa đặc trưng như phân N:P:K loại 1 0:20:20 hoặc 6:30:30.

Trước khi lan bước vào mùa nghỉ dùng loại phân bón có nồng độ kali cao. Để tăng sức chịu đựng như phân N:P:K loại 10:20:30. Cũng theo Nguyễn Công Nghiệp, không nên dùng nồng độ phân bón quá 1 g/lít nước vì sẽ làm cây lan chết hoặc thoái hoá. Phân bón qua lá dưới dạng phun sương là rất hiệu quả. Theo Nguyễn Hạc Thúy (2001) [26], phân bón qua lá gồm phân hóa học (vô cơ), phân hữu cơ (xác bã động, thực vật,…) và phân hữu cơ có nguồn gốc EDTA và các Amino acid thuỷ phân từ các chất hữu cơ giàu protein (phân Fomior). Tác giả đã xác định phân có tỷ lệ đạm cao (30:10:10) phù hợp cho cây con. Những cây đang nảy chồi mới, những cây sau khi cắt hoa. Phân có tỷ lệ lân cao (6:30:30) kích thích ra rễ, hoa, làm cho lá bớt màu xanh, giảm lượng nước ở trong lá, tăng khả năng đề kháng của cây. Phân có tỷ lệ kali cao (10:20:30) giúp cây khỏe, chống hạn, sâu, bệnh tốt. So với cây trồng khác thì cây lan cần lượng kali tương đối nhiều vì mục đích chính của nuôi trồng lan là thưởng thức hoa. Kali giúp hoa có màu sắc đẹp, bền, thường sử dụng phân có tỷ lệ kali vào lúc cây lan có hoa.

Việt Chương và Nguyễn Việt Thái (2002) [3] đã xác định tỷ lệ bón phân N:P:K phù hợp cho từng giai đoạn sinh trưởng của lan như N:P:K loại 30:10:10 thúc đẩy tốt cho việc tăng trưởng, ra lá lan. Loại 10:20:10 bón thúc cho lan ra hoa sẽ cho hiệu quả cao. Loại 10:10:20 thúc đẩy lan ra rễ tốt. Loại 10:20:30 làm tăng sức chịu đựng và sức đề kháng cho lan.

Theo Phạm Thị Liên (2002) [15] bón phân thường được chú trọng đến 3 nguyên tố chính N, P, K với rất nhiều tỷ lệ tùy thuộc theo mục đích sử dụng, loài lan, thời kỳ sinh trưởng của lan. Ngoài ra còn có thể kết hợp thêm các nguyên tố vi lượng như đồng (Cu), sắt (Fe), kẽm (Zn)…và một số vitamin cần thiết khác. Tuy nhiên, trong cây lan nước chiếm xấp xỉ 90%, chỉ 2% là các nguyên tố khoáng chất nên nếu bón nhiều phân sẽ tạo ức chế sinh trưởng của cây, làm cháy rễ, vì vậy việc bón phân hết sức linh động, phụ thuộc vào thời tiết, vào từng giai đoạn sinh trưởng của cây.

2.3. Các nghiên cứu về biện pháp tưới nước dành cho lan đai châu.

Lan Đai Châu có khả năng chịu hạn tốt hơn chịu úng. Cây có nguồn gốc từ những khu rừng nhiệt đới, thích hợp với những trận mưa rào bất chợt. Do vậy, tưới nước cho lan Đai Châu đảm bảo khi rễ cây khô mới tưới, nếu duy trì độ ẩm cao liên tục nhiều ngày rễ cây sẽ bị thối. Khi tưới cũng cần căn cứ vào tuổi cây, mùa vụ và giá thể trồng để tưới nước cho phù hợp.

Đặng Văn Đông và cs. (2010) [5] đã nghiên cứu phương pháp tưới nước cho lan Đai Châu tại Gia Lâm – Hà Nội cho thấy: tưới kết hợp phun sương và tưới bằng vòi hoa sen cho hiệu quả sinh trưởng mạnh nhất và tỷ lệ ra hoa đạt 90%.

Theo Nguyễn Xuân Linh (2005) [17], tưới nước cho lan ở giai đoạn cây con phải thận trọng, tưới nhẹ nhàng bằng vòi phun sương, mịn hạt, tưới 3-4 lần/ngày nếu quá khô. Đối với lan trưởng thành thì tùy theo mùa, theo loài lan, thời kỳ sinh trưởng, giá thể trồng mà quyết định số lần tưới cũng như lượng nước tưới cho phù hợp. Theo tác giả Trần Minh Hiền Trang (2012) [28] phương pháp tưới nước cho lan Đai Châu bằng phun sương hạt to là hiệu quả nhất, số rễ đạt 6,17 rễ, chiều dài rễ 27,06cm, số lá 8,15 lá và chiều dài lá là 22,59cm, chiều dài cành hoa là 18,12 cm. Theo Nguyễn Quang Thạch và cs. (2005) [23], cây lan con sau khi trồng 1-2 ngày không cần tưới nước ngay vì chất trồng vừa mới rửa, mới ngâm còn giữ độ ẩm cao. Lan con mới đưa ra khỏi chai ít ngày, lá thường bị héo phải tưới nước nhẹ nhàng bằng vòi phun sương, mịn hạt, thường xuyên tưới nước 3-4 lần mỗi ngày nếu quá khô. Khi rễ lan ló ra mới bắt đầu bón phân và tăng lượng nước tưới. Cây lan trưởng thành nếu tưới nước thiếu, lan sẽ khô héo dần rồi chết. Nhưng tưới nước thừa lại làm cho bộ rễ lan ẩm ướt, thiếu oxy, không hấp thụ được chất dinh dưỡng, bộ rễ thối rồi chết. Việc tưới nước phải đảm bảo hài hòa với nhiệt độ, ẩm độ và ánh sáng.

Vì vậy, không có công thức duy nhất nào quy định mỗi ngày tưới mấy lần, mỗi lần tưới bao nhiêu nước cho lan đai châu.

Tưới nước cho lan đai châu

Theo các tác giả của Trung tâm Khoa học và sản xuất Nông – Lâm nghiệp Quảng Ninh cho thấy: số lần tưới nước thích hợp cho lan Đai Châu là 2 lần/ngày vào lúc 8 giờ sáng và 4 giờ chiều. Nước tưới có độ pH là 5,5-6,0, hàm lượng vi sinh vật trong nước không vượt quá 5000MPN/100ml và độ đục dưới 5 NTU [4].

2.4. Các nghiên cứu về biện pháp kỹ thuật điều khiển ra hoa.

Lan Đai Châu còn có tên gọi là “Nghinh Xuân” vì thường nở hoa vào mùa xuân. Vào dịp Tết Nguyên Đán của Việt Nam. Tuy nhiên, tùy điều kiện thời tiết mỗi năm mà cây ra hoa sớm hoặc muộn. Vấn đề điều khiển ra hoa cho lan Đai Châu cũng chưa được các tác giả Việt Nam đề cập.

Các tác giả Trịnh Cẩm Tú và Bùi Trang Việt (2006) [32], đã nghiên cứu sự ra hoa của lan Hoàng Thảo (Dendrobium sp.) trong ống nghiệm thông qua hoạt động của mô phân sinh hoa tự.

Vai trò của các chất điều hoà sinh trưởng trong sự phát triển của cành hoa 0,25% khi phun trực tiếp lên cành hoa có tác dụng kéo dài đời sống mô phân sinh hoa tự, làm tăng số nụ trên cành hoa. Vũ Ngọc Lan (2011) [14] đã nghiên cứu điều khiển ra hoa cho lan Dendrobium Sonia. Các tác giả cho thấy IAA 0,5mg/lít giúp hình thành hệ thống mạch bên dưới mô phân sinh hoa tự, BA 5mg/lít giúp nụ hoa tận cùng chậm héo và GA3 1mg/lít giúp kéo dài lóng của trục cành hoa. Khi nghiên cứu và sử dụng các chất điều hoà sinh trưởng nhằm làm tăng số nụ và chất lượng hoa lan Dendrobium sp. đã cho thấy hỗn hợp IAA 2mg/lít, BA 5mg/lít, GA3 10mg/lít kết hợp với CoCl 2 Dendrobium.

Theo tác giả, lan Dendrobium trồng với giả thể 50% than củi + 50% xơ dừa đến giai đoạn ngừng sinh trưởng thân lá (18 tháng tuổi) thì dừng tưới nước 3-5 ngày và phun bổ sung phân bón Growmore 10:30:10 hoặc 10:10:30 (1-1 ,5 g/lít) 7 ngày/lần để làm tăng tỷ lệ ra hoa, hoa ra tập trung, tăng năng suất, chất lượng hoa. Vụ Đông Xuân, chiếu sáng bổ sung bằng đèn compax cường độ 75 lux trong 4 giờ cho tỷ lệ ra hoa cao hơn và tăng chất lượng hoa.

Theo Nguyễn Quang Thạch và cs. (2003) có thể điều khiển lan Hồ Điệp ra hoa theo ý muốn.

Sự ra hoa của lan Hồ Điệp không phụ thuộc vào quang chu kỳ nhưng phụ thuộc chặt chẽ vào chế độ nhiệt. Có thể xử lý cây lan ở các độ tuổi khác nhau với biên độ nhiệt độ 24 o C ban ngày và 14 o C ban đêm cho tỷ lệ cây ra hoa từ 50- 70% sau xử lý từ 1 -3 tháng (phụ thuộc vào tuổi cây và thời vụ xử lý) [22].

2.5. Các nghiên cứu về sâu, bệnh hại

Lan Đai Châu thường bị một số sâu, bệnh hại chính như bệnh thối nhũn, đốm đen, thán thư, thối đen, sâu róm, rệp sáp, nhện đỏ, sên và ốc sên. Trong đó, bệnh thối nhũn, đốm đen và sên gây hại khá phổ biến làm giảm số lượng cây và giảm giá trị thẩm mỹ, gây thiệt hại về kinh tế cho người trồng lan.

Theo Việt Chương và cs. (2002) [3], côn trùng hại lan gồm rệp bông, rệp sáp, rệp son, rệp bọc, bọ trĩ, bọ nhảy, sâu bướm, ong vẽ bùa, gián, ốc sên.

Bệnh hại lan chủ yếu do nấm và vi khuẩn gây nên như đốm lá, thán thư, đốm vòng cánh hoa, đen thân, thối đen ngọn, thối mềm lá và bệnh thối rễ gây hại. Nguyễn Công Nghiệp (2000) [21 ] đã xác định bệnh hại lan chủ yếu là bệnh thối đọt, khô căn hành, thối ngọn, đốm lá…. Có thể dùng một số loại thuốc sát khuẩn có đồng như Oxiclorua đồng, Boóc đô từ 0,5-1,0%, các dẫn xuất có gốc Etylen, hỗn hợp Zinep và Clorua đồng… Ngoài ra, trên cây lan có một số côn trùng gây hại như kiến, ruồi đục lá, hoa, rệp son, bọ trĩ… có thể dùng Bassa, Malathion để phun phòng trừ.

Theo các tác giả Trung tâm Khoa học và sản xuất Nông – Lâm nghiệp Quảng Ninh cho thấy sử dụng chế phẩm sinh học Ketomium có tác dụng phòng trừ bệnh tốt nhất, tỷ lệ cây bị bệnh thối lá thấp nhất (5,6%) (Trần Thị Doanh, 2013) [4].

Việt Nam là nước có khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm thích hợp cho sự phát triển của nhiều loại sâu, bệnh gây hại đối với lan.

Việc phòng và ngăn chặn kịp thời các loại dịch hại là cần thiết. Tuy nhiên, cây hoa lan nói chung và lan Đai Châu nói riêng thường được trồng ngay cạnh nhà hoặc trong khuôn viên nhà, gần gũi với môi trường sống của người dân. Trong khi đó, hiện nay các nhà vườn đang lạm dụng hóa chất bảo vệ thực vật trong phòng trừ sâu, bệnh hại lan dẫn đến dịch hại nhờn thuốc và độc hại cho người và môi trường sống. Việc thử nghiệm và phổ biến thuốc sinh học trong phòng trừ một số sâu bệnh hại chính trên hoa lan là rất cần thiết.

3. Các tiêu chí của một cây hoa lan Đai Châu đạt tiêu chuẩn

Có rất nhiều quan điểm và tiêu chí cho một giống hoa lan Đai Châu đạt tiêu chuẩn thương mại trên thị trường, theo tác giả Bùi Xuân Đáng (web: chúng tôi [36]) thì cây lan Đai Châu (3 năm tuổi) đạt tiêu chuẩn thương mại trên thị trường cần có các tiêu chí sau: + Cây khỏe, phát triển đều, rễ dài, to, khỏe. + Lá xanh, mọc đều 2 bên, lá sau to hơn lá trước, không bị sâu bệnh. + Số lá đạt ít nhất 5 lá. + Chiều dài lá 20-35cm. + Chiều rộng lá 3,5-5,0cm. + Cây có 1 hoặc nhiều cành hoa. + Cành hoa dài tương đương với lá, dài trên 18cm. + Có trên 25 hoa/cành. + Đường kính cành trên 0,5cm. + Cánh hoa chồng khít, 2 cánh hoa gần bằng với 3 cánh đài, đường kính hoa 2-3 cm. + Hoa tươi, màu sắc đẹp, có hương thơm.

Khó khăn trong sản xuất hoa lan Đai Châu ở điều kiện miền Bắc Việt Nam là cây sinh trưởng chậm. Mỗi năm chỉ tăng thêm được từ 1 -2 lá. Thời gian từ khi trồng đến khi ra hoa phải mất 3-4 năm, hoa ngắn, chất lượng kém nên không đáp ứng được yêu cầu của thị trường.

Với mục đích bảo tồn và phát triển rộng rãi lan Đai Châu trong sản xuất. Đề tài nghiên cứu đặc điểm nông sinh học của cây từ đó đưa ra các biện pháp kỹ thuật tác động từ giai đoạn vườn ươm đến giai đoạn vườn sản xuất nhằm làm tăng khả năng sinh trưởng của cây. Sau trồng 2 năm có khả năng ra hoa, tỷ lệ ra hoa cao, chất lượng hoa tốt, đáp ứng được các tiêu chí của một chậu lan Đai Châu đủ tiêu chuẩn thương mại.

Hoa lan Đai Châu là loài hoa có giá trị thẩm mỹ, giá trị kinh tế cao. Có tiềm năng phát triển ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Đã có một số công trình nghiên cứu về hoa lan Đai Châu. Các nghiên cứu mới tập trung vào các biện pháp nhân giống. Các tác giả đã xác định được vật liệu sử dụng cho nhân giống là từ hạt chưa trưởng thành, hạt đã trưởng thành và từ đỉnh sinh trưởng. Bên cạnh đó các tác giả đã xác định được môi trường nuôi cấy, nhân nhanh và tạo cây hoàn chỉnh. Cây con sau ra ngôi sinh trưởng tốt, có khả năng đáp ứng cho sản xuất.

Trên thế giới cũng đã có một số nghiên cứu về đặc điểm nông sinh học và biện pháp kỹ thuật trên lan Đai Châu như nghiên cứu về nhiệt độ, ánh sáng, phun GA3 nhằm tăng khả năng sinh trưởng, phát triển của cây. Song các nghiên cứu về giải phẫu, tương quan sinh trưởng giữa cơ quan sinh dưỡng và hoa vẫn chưa được đề cập. Đặc biệt là ở Việt Nam có rất ít các nghiên cứu về hoa lan Đai Châu, người dân chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống để trồng và chăm sóc nên cây sinh trưởng chậm, lâu ra hoa và chất lượng hoa kém. Để cây lan Đai Châu phát triển rộng rãi trong sản xuất cần có những nghiên cứu về đặc điểm nông sinh học, kỹ thuật trồng, chăm sóc, điều khiển ra hoa nhằm bổ sung hoàn thiện quy trình phục vụ nhu cầu sản xuất. Tăng thu nhập cho người trồng lan và hướng tới xuất khẩu trong tương lai. Các kết quả nghiên cứu trước đây sẽ là cơ sở để đề tài tham khảo và kế thừa, từ đó đề ra các nghiên cứu tiếp theo một cách toàn diện và hiệu quả.

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM NÔNG SINH HỌC VÀ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT TRỒNG, CHĂM SÓC HOA LAN ĐAI CHÂU ( RHYNCHOSTYLIS GIGANTEA (LINDLEY) RIDLEY) Ở MIỀN BẮC VIỆT NAM

Hướng Dẫn Tưới Nước Cho Lan

Hướng dẫn tưới nước cho lan: Nước là yếu tố cần thiết cho sự sống của thực-vật và động-vật. Đối với những người mới chơi hoa lan, phần lớn cây chết cũng vì tưới nước không đủ hay ngược lại tưới quá nhiều nước làm cây chết vì úng nước. Thực tế cho biết 90% cây lan chết vì tưới nhiều nước mà nguyên do vì thiếu kinh nghiệm hay sơ ý.

Mới đầu ai cũng tưởng tưới nước thì dễ nhưng vô ý đã làm cây lan chết oan uổng. Vậy chúng ta thử tìm hiểu nguyên nhân đã gây ra vấn nạn trên.

I. Những yếu tố để trồng lan:

Để trồng thành công hoa lan cần có nhiều yếu tố như sau:

1. Nước: – Nước mang lại độ ẩm cho cây trong đó có hoa lan – Nước làm hòa tan chất bổ dưỡng nuôi lan và – Làm ung thối trứng côn trùng làm hại cây cối.

2. Ánh sáng: Ánh sáng cần cho cây để ra hoa và có diệp lục tố. Nên trồng cây quay về hướng Nam để đón nhiều ánh sáng. Có thể dùng ánh sáng nhân tạo thay cho ánh sang thiên nhiên. Mỗi loại lan cần một độ sáng thích hợp.Che chắn để tránh ánh sáng trực tiếp, gay gắt, làm cháy lá cây.

3. Vật liệu để trồng lan: Tùy loại tuổi, loại lan để chọn vật liệu thích hợp. Lan Vanda có thể phơi rễ ngoài không khí nhưng đa số Lan đều được trồng bằng những vật liệu như vỏ cây, đá sạn, rêu, sơ dừa, perlite…

4. Phân bón: Nên dùng loại phân đã được chế sẵn cho hoa lan. Liều lượng, hàm lượng sẽ thay đổi tùy theo mùa, thời tiết, độ lớn của cây, và chủng loại cây trồng…

5. Nhiệt độ: Lan mọc khắp trái đất với nhiều nhiệt độ khác nhau nên mỗi loại Lan cần có môi trường nhiệt độ thích hợp. Nhiệt độ ôn đới thích hợp nhất cho hoa lan.

6. Thoáng khí: Lan cần trồng nơi thoáng khí giúp cho nước khỏi ứ đọng quá lâu nơi vật liệu trồng lan và tránh cho cây khỏi nấm.

Trên đây là những yếu tố cần cho việc trồng hoa lan mà người trồng phải tiên liệu khả năng có thể cung cấp cho cây lan sắp mua về. Người trồng cần tìm hiểu những đặc tính của cây lan mà có sự săn sóc thích hợp. Ngoài ra, để thành công trong việc trồng lan, người trồng tự hỏi mình có đủ kiên nhẫn để tìm hiểu, trau dồi, học hỏi, chăm sóc cây lan mình ưa thích.

II. Vấn đề tưới nước cho cây lan.

Thường những người không chơi lan đều cho việc tưới nước là bình thường, dễ dàng. Nhưng, nguyên nhân đem đến cái chết cho cây lan là thiếu nước hay phần lớn vì thừa nước. Do đó, chúng ta thử tìm hiểu những vấn đề liên quan đến việc tưới nước sao cho cây khỏi chết.

Tùy cách cấu tạo của mỗi loài lan mà cây này có thể chịu đựng được sự thiếu nước hay thừa nước trong một thời hạn bao lâu. Ví dụ như cây Vanda, rễ đong đưa ngoài không khí, không có củ chứa nước, không trồng trong chậu, dễ bị khô nước. Do đó ta phải tưới loại cây này thường hơn loài cây trồng trong chậu, có củ dự trữ nước như Cattleya.

Nếu không tưới kịp thời, rễ, thân, sẽ khô và chết dần. Nguyên nhân cây chết khô vì tưới không đủ nước, khoảng cách tưới quá xa, bỏ quên không tưới một thời gian dài hoặc cây bị che khuất mỗi lần tưới. Ngược lại, nếu tưới quá nhiều, nước đọng ứ, rễ bị ngộp, hiện tượng sinh hóa bị cản trở, cây không hút được dưỡng khí và không thải ra thán khi được, cây sẽ chết.

Khi tưới nước, ta đã đem độ ẩm cần thiết cho cây đồng thời nước làm hoà tan khoáng chất, muối, hoá chất, làm thành chất nuôi dưỡng cho cây.

A.- Những yếu tố sau đây ảnh hưởng đến việc tưới nước cho cây lan:

1.- Rễ cây. Nếu rễ bị đứt, bị giập, bị thối, cây sẽ không còn bộ phận hút nước vào trong thân cây. Nếu cứ tưới thêm, nước sẽ dư làm cây bị úng nước. Đây là trường hợp cây lan mới thay chậu. Cây bị cắt rễ, hay rễ bị giập nên không cần tưới trong thời gian ba tuần sau khi thay chậu.

2.- Chủng loại lan. Mỗi loại lan ham nước một cách khác nhau. Loại lan Cattleya rất thích nước, có củ bẹ để chứa nước. Lan có rễ lớn, lá dày, củ mầm bự, ít thích nước hơn.. Cây lớn hút nước nhiều hơn cây nhỏ.

3.- Ẩm độ / Mùa mưa. Ẩm độ thay đổi tuỳ theo mùa. Mùa mưa hay mùa Đông ẩm độ nhiều nên có thể tưới ít hoặc khoảng cách tưới xa hơn . Mùa mưa ta không cần tưới nhiều. Lan Hồ-Điệp trồng được trong nhà nên có thể chịu độ ẩm dưới 30% trong khi lan Cymbidium có thể chịu độ ẩm 50% hay hơn và Lan Dendrobium từ 50 đến 70%.

Ẩm độ lý tưởng để trồng lan từ 50 đến 60%. Ẩm độ nhiều làm cây dễ sinh bệnh, hoa có chấm và nấm.

4.- Nhiệt-độ / Mùa nắng. Mùa Hạ, nắng, nhiệt độ cao, cây mất nước nhiều nên cũng phải tưới nhiều hơn mùa mưa. Nhiệt-độ ấm khi cao hơn 60°F (15.5°C), nhiệt-độ trung bình từ 50 đến 60°F (10-15.5°C) và Mát từ 45 đến 50°F (4.4-10°C). Nhiệt-độ trên 90°F (32.2°C) không thích hợp cho hoa lan.

5.- Phẩm chất của nước. Khi tưới, ta cần lưu ý tới phẩm chất của nước. Nước có thể đục nhưng không được chứa quá nhiều hoá chất, độc tố, vi sinh vật… Thành phần những chất hòa tan đã làm thay đổi phẩm chất của nước. Nước mưa với ít tạp chất được coi như lý tưởng để tưới cho lan. Nước tưới mà cây phát triển mạnh thì có thể dùng được.

Nếu không, ta phải dùng nước đã được phân chất cho thích hợp với loại lan đang trồng. Đo pH để biết phẩm chất của nước chứa nhiều ít acid và alkalin có trong nước.

Trung bình là pH7. Dưới pH7, số càng nhỏ biểu hiệu số acid càng cao và mỗi số đều gấp 10 lần nồng độ số trước nó. Ví dụ pH6 có độ acid trung bình, pH5 có độ acid 10 lần hơn pH6.

Trên pH7 là biểu hiệu số tăng chất alkalin trong nước. Ví dụ pH8 có nồng độ alkalin trung bình, pH9 thì có nhiều alkalin hơn. Đo pH bằng giấy (Hydrion paper) hay bằng máy đo.

Nước lợ, nước phèn, nước mặn đều không dùng để tưới cho lan được. Ta có thể hỏi thăm các nhà trồng tỉa để biết tình trạng nước trong vùng.

Nồng độ của nước có thể thay đổi tuỳ theo thành phố. Nếu nước có pha nhiều chất chlorine ta có thể vợi ra bể chứa để cho bay hơi bớt và dùng sau. Có thể dùng cát hay filter để lọc nước chứ đừng dùng hoá chất.

Ví dụ chất muối dùng trong máy làm nhẹ nước (water softener) sẽ làm cây chậm lớn hoặc chết cây. Nước mưa thật sự cũng có nhiều tạpchất như bụi, khói, hoá chất.Thường thì nước máy uống hằng ngày có thể dùng để tưới cho lan.

6.- Chất dùng để trồng lan. Mỗi loại lan cần một chất để trồng riêng và do đó đòi hỏi phải tưới nhiều ít tuỳ theo sự giữ nước của chất trồng. Vỏ cây giữ nước nhiều hơn sỏi đá nên được xay to nhỏ khác nhau cho hợp với loại, cỡ của cây. Thành phần chất trồng cũng được thay đổi tuỳ loại lan và để giữ nước mau hay lâu.

Ví dụ Cattleya cần 80% vỏ cây hay đá và 20% perlite. Trong khi đó, Phalaenopsis cần chất trồng mau thoát nước gồm vỏ cây loại trung bình, coarse perlite, sphanugm moss với tỷ lệ 6/2/2. Tuy gọi là lan đất cymbidium nhưng thành phần chất trồng cũng gồm có 50% vỏ cây loại trung bình, 30% rêu và 20% perlte.

Cát, đá không giữ nước lâu nên dùng cho những loại lan không ưa nhiều nước hoặc dùng để pha thêm vào các chất giữ nước nhiều để có mức độ giữ nước trung bình. Nếu đã dùng nhiều cát đá làm chất trồng thỉ phải tưới nhiều hơn. Đá hỏa diệm sơn vừa giữ nước vừa bọng nên dễ thoáng khí.

7.- Chất làm chậu trồng lan. Đa số lan được trồng trong chậu làm bằng nhựa hay bằng đất nung với kích thước thay đổi cho hợp với cỡ của cây lan. Chậu nhỏ, chứa ít nước nên mau khô hơn chậu lớn. Chậu làm bằng nhựa kín hơn chậu làm bằng đất nung nên nước dễ bị ứ đọng làm chết cây lan..

Chậu đất dễ thoát nước nên mau khô nhưng nặng hơn chậu nhựa. Muốn cho chậu nhựa mau thoát nước ta có thể khoét thêm lỗ chung quanh. Các lỗ này còn giúp cho thoáng khí.

Đường kính của chậu (inch) Ngày tưới 2″ Tưới mỗi 3 ngày 4″ Tưới mỗi 5 ngày 6″ Tưới mỗi 7 ngày

Vào mùa Đông, chậu đường kính 3 đến 4″ có thể tưới cách ngày trong khi vào mùa Hè phải tưới mỗi ngày. Cây trồng trong chậu lớn vào mùa Đông có thề tưới cách 5,6 ngày, nhưng vào mùa Hè phải tưới cách nhau 2 đến 3 ngày.

8.- Nước và phân bón. Nước mang chất dinh dưỡng nuôi cây. Nước làm hòa tan phân bón, chất khoáng cần thiết cho cây. Phân dùng cho lan dưới dạng lỏng, bột, viên. Phân được pha với nước theo một tỷ lệ do nhà sản xuất định sẵn trước khi tưới cho cây. Thường thì nên dùng một tỷ lệ ít hơn.

Không nên tưới phân khi đất trồng còn khô mà nên tưới nước đã pha phân khi chất trồng còn ẩm. Triệu chứng nhiều phân quá: lá vàng, đầu lá bị cháy. Có thể chữa bằng cách ngưng tưới phân, tưới đẫm nước để rửa bớt phân và nếu cần thay đất trồng. Chỉ tưới phân khi cây đang tăng trưởng.

Cây ngoài nắng cần nước và phân nhiều hơn cây trong rợp. Trong thời gian lan đang có hoa nên ngưng bón phân thì hoa sẽ bền hơn.

B.- Đồ dùng để tưới & cách tưới.

1.- Làm sao biết cây lan thiếu nước? thừa nước?

a. Thiếu nước: – Nhấn ngón tay vào đất trồng mà không thấy mát là thiếu nước. – Chất trồng trở nên khô giòn, bời rời, đồi màu trắng lợt. – Nâng chậu lên thấy nhẹ hơn lúc thường. – Lá héo, thân tóp, củ nhăn nheo. – Có thể dùng ẩm kế để đo độ ẩm bằng cách cắm vào đất trồng.

b. Triệu chứng dư nước: – Lá vàng, rũ xuống hay mọng nước. – Củ thâm đen, mọng nước màu vàng, có mùi hôi, trở thành màu nâu rối xốp

2.- Đồ dùng để tưới: Người ta có thể dùng gáo, bình tưới, vòi tưới có thể điều chỉnh được. Nếu trồng nhiều người ta lắp đặt hệ thống tưới tự động bằng máy. Hệ thống nhà kính bao gồm ánh sáng, nhiệt độ (sưởi ấm/lạnh), tưới nước+phân, quạt làm cho thoáng khí, máy phun… hơi nước, sương.

3. Cách tưới nước cho lan: – Tưới khi đất trồng bắt đầu khô. – Tưới ít nước nhưng nhiều lần đối với cây phơi rễ ra ngoài không khí hay đất trồng nhiều cát, đá, sỏi. – Tưới đẫm để rửa chất phèn, muối đọng lại nơi đất trồng. – Tưới đi tưới lại . Nếu tưới nhanh, nước chưa kịp thấm vào chất trồng (loại lớn) mà phải tưới lại mới đủ nước. – Nhúng cả chậu vào nước ngang với gốc cây trong vài phút. Lợi điểm là chất trồng ướt đều, giết, đuổi được sâu bọ, làm ung trứng sâu trong đất trồng nhưng có nhược điểm là dễ truyền bệnh cho nhau. – Không nên tưới vào lá khi trời nắng gắt. Lá và mầm non sẽ bị cháy. – Tưới khi cây đang tăng trưởng, còn rễ. – Tưới sau khi thay chậu đươc hai đến ba tuần. Không tưới cũng là cách kích thích rễ mau ra. – Nên tưới vào buổi sáng để cây có độ ẩm nguyên ngày. Nước không đọng trên lá và kẽ lá vì có nắng gió làm mau khô. – Nên tưới vào xế chiều hoặc tối vào những tháng nóng và vào sáng sớm những ngày mùa Đông. – Nếu tưới mà không thấy nước thoát ra là nước bị ứ đọng. Nên soi đất trồng hay thay đất mới. – Đối với hoa lan, nên tưới nước nhỏ như sương. Hoa chứa nước mau úng, mau tàn. Tưới quá nhiều nước nụ không nở, rụng. – Có thể đặt lan trên khay nước để có độ ẩm. – Tránh dùng vòi nước sói mạnh trực tiếp làm long rễ và văng đất trồng.

c/ Tại sao quá nhiều nước lan chết? Cách chữa.

Theo kinh nghiệm bản thân, lan chết vì nước chiếm đến 90 % trong đó cũng 90% vì quá nhiều nước và phần còn lại vì thiếu nước. Khi tưới nhiều, nước bao kín rễ nên cây không đủ không khí để thở. Rễ cần Oxy để biến đổi chất đường qua hiện tượng tổng hợp quang học (photosynthesis) thành năng lượng cần cho đời sống thực vật.

Tiến trình trao đổi khi rễ hút dưỡng khí vào làm phát sinh carbon dioxide. Chất này cũng phải được thải ra ngoài qua rễ. Nếu tưới nhiều nước làm ngưng tiến trình trao đổi, thiếu oxy, ứ đọng carbon dioxide, làm thối rễ, lá vàng héo và cây chết dần.

Nếu thấy sớm hiện tượng cây bị ứ nước ta có thể ngưng tưới, để cây riêng một chỗ, soi đất cho nước mau thoát và thêm thoáng khí. Nếu được nên cắt rễ thối, thay chậu và đất trồng mới. Khi thấy lá vàng, héo, nếu tưởng lầm là thiếu nước mà tưới thêm sẽ làm cây chết mau hơn.

III. Kết luận:

Nước mang lại độ ẩm và chất dinh dưỡng cho cây và nhất là cây lan vốn rất nhạy cảm với nước. Người trồng lan cần nắm vững các yếu tố như giống lan, đất trồng, độ ẩm, nhiệt độ chung quanh, mùa nắng, mùa mưa, kích thước chậu to nhỏ, để tưới nước nhiều hoặc ít sao cho phù hợp với đặc tính của cây lan mà ta đang trồng. Có thế, cây lan mới tăng trưởng và đem lại kết quả mong đợi.

Cách Thay Chậu Cho Lan Đai Châu Giống

Cách trồng và chăm sóc địa lan Santo

Cách thay chậu cho lan đai châu giống

Vài nét về lan đai châu – ngọc điểm

Hiện nay, ở Việt Nam có 2 loại lan đai châu – ngọc điểm được trồng phổ biến đó là: ngọc điểm rừng và ngọc điểm Thái.

Ngọc điểm rừng chỉ có một màu duy nhất là trắng chấm tím và thơm vô cùng. Trong khi đó, các giống ngọc điểm Thái có đặc điểm rất đa dạng về màu sắc và mặt hoa nhưng không có hương thơm.

Đa số các giống ngọc điểm đều nở hoa vào dịp Tết Nguyên đán.

Trồng và chăm sóc lan hồ điệp

Điều kiện sinh thái lan đai châu – ngọc điểm

Lan đai châu là loại lan có thân bụi to và phát triển mạnh. Lá của cây to bản và dài xanh mướt thường phát triển nhanh và mạnh. Lan này thuộc nhóm đơn thân không có phần giả hành tăng trưởng theo chiều đứng. Cây có bộ rễ khá to và mọc thẳng từ phần thân. Trong điều kiện tự nhiên thì lan ngọc điểm có thể phát triển cao đến hơn 1 mét.

Nhiệt độ và độ ẩm

Ngọc điểm là loại lan chịu được nóng khá tốt. Nhiệt độ thích hợp nhất để lan ngọc điểm phát triển rơi vào khoảng 26-30 độ C.

Lan ngọc điểm chịu hạn khá tốt tuy nhiên lại ưa điều kiện ẩm độ cao và nhanh phát triển. Độ ẩm khoảng từ 40-70%.

Ánh sáng

Lan ngọc điểm thuộc loại cây ưa sáng khoảng 60%. Ánh sáng quá mạnh sẽ khiến cho cây bị bỏng và cây phát triển chậm và yéu ớt dễ sinh bệnh và khó ra hoa.

Chú ý khi trồng cây:

Cây lan ngọc điểm là loại lan độc trụ nên khi trồng giá thể cần phải thật thoáng. Khi trồng chỉ cần cột chặt cây Lan vào một cây tựa đặt vào giá thể khoảng 3 cục than gôc thật to là đủ.

Cách sử dụng đá bọt trồng lan phi điệp

Việc thay chậu cho lan đai châu giống giúp cho cây phát triển tốt hơn. Thời gian tốt nhất để thay chậu là đầu mùa mưa, lúc này thời tiết mát mẻ thuận lợi cho lan phát triển và ra rễ mới.

Giá thể trồng lan ngọc điểm:

Ngọc điểm – đai châu thuộc nhóm lan đơn thân có rễ gió nên giá thể trồng cần phải thông thoáng và thoát nước tốt.

Hỗn hợp giá thể dớn, đá Perlite trân châu, vỏ thông, đá bọt pumice với tỷ lệ 1 : 1: 1: 1 phân bố theo kích size từ nhỏ đến lớn sẽ tạo nên hỗn hợp giá thể thông thoáng và giữ ẩm phù hợp cho lan ngọc điểm.

Chăm sóc lan ngọc điểm

Cây lan ngọc điểm là loại lan có khả năng hấp thụ nước khá tốt. Chính do cấu tạo giá thể thoáng, nên ta có thể tưới nước cho Ngọc Điểm 2 lần/ngày vào mùa mưa từ đầu tháng 5 đến cuối tháng 11, 3 lần/ngày từ đầu tháng 11 đến cuối tháng 1. Từ đầu tháng 2 đến cuối tháng 4, ta chỉ tưới mỗi ngày một lần cho cây đủ sống. Mùa nghỉ thực tế của cây lan Ngọc Điểm nên bắt đầu sau khi cây tàn hoa và kéo dài cho đến khi rễ mới xuất hiện lúc mà mưa bắt đầu.

Lan ngọc điểm có thời gian nghỉ khoảng 3 tháng từ tháng 2 cho đến tháng 4 nên chỉ cần tưới nước mà không cần bón thêm phân bón cho cây. Khi cây bắt đầu có hiện tượng chớm nở nụ hoa bạn tiến hành thay phân bón có tỷ lệ kali cao để tạo cho cây có được sức chống đỡ trong thời gian nghỉ.

Cung cấp đá Pumice trồng lan

Đai châu – ngọc điểm là loài hoa bản xứ, vì vậy khả năng chống chịu bệnh của nó rất cao. Nó có khả năng chống lại hầu hết các loài sâu bệnh. Tuy nhiên, cây Lan mới được mang từ rừng về được trồng ở nơi có ánh sáng trực tiếp, sẽ làm cho cây bị bỏng là và đây là của ngõ xâm nhập của một số loài nấm, gây bất lợi cho cây rất nhiều.

Bạn muốn tư vấn rõ hơn hãy liên hệ Namix

Khách mua lẻ, tư vấn kỹ thuật: 0902422348 hoặc Nhắn tin Fanpage Namix

Khách Mua sỉ, làm Đại lý: 0902612348 / 0904003679 hoặc Nhắn tin Zalo

Cách Phân Biệt Lan Đai Châu Rừng Và Đai Châu Thái

Lan đai châu trong khoa học

Lan đai châu trong các nghiên cứu khoa học có tên tiếng anh là Rhynchostylis gigantea. Đây là cây lan được phát hiện lần đầu năm 1896 bởi Lindley. Lan đai châu sống trong rừng bám vào các thân cây trong rừng, phổ biến và dễ gặp ở các khu rừng Việt Nam, Lào, Myanamar, Thái Lan, Malaysia, Campuchia, Bangladesh, Philippines,… Đặc biệt, lan đai châu còn là hoa đặc trưng của vùng Assam.

Lan đai châu thường cho hoa vào dịp tết đến, xuân về; chính vì thế mà được mọi người ưa chuộng.

Nhận biết lan đai châu qua thân lá

Lan đai châu (ngọc điểm, nghinh xuân) có đặc điểm nhận biết cực kì dễ dàng. Đai châu có lá cực dày và mọng nước. Dọc lá có những vệt màu trắng chạy dài từ cuống lá đến đầu lá. Đầu lá đai châu thường tù, không nhọn và chia thành hai thùy. Vì lá đai châu cực dày và chứa nhiều nước nên đai châu rất nặng.

Đai châu có những chiếc rễ cực to, cây nhỏ rễ thường nhỏ bằng đầu đũa, cây to có khi có rễ to bằng đuôi đũa hay bằng chiếc bút bi Thiên Long. Đầu rễ đai châu thường có màu xanh nhạt ( trong điều kiện thiếu nắng) hoặc tím (trong điều kiện tiếp xúc nhiều với ánh nắng).

Đai châu thường lớn cực chậm, mỗi năm chỉ cho ra từ 3-4 là là căng. Chính vì thế chúng ta thường chỉ nhìn thấy những cây đai châu có thân ngắn chứ không thể dài được như quế hay tam bảo sắc. Đai châu có rễ bám vào giá thể rất chặt để hút nước và ít khi rễ vươn ra bên ngoài nhiều, trừ khi môi trường bên ngoài ẩm hơn cả giá thể.

Nhận biết đai châu qua mặt hoa

Về hoa lan đai châu, có lẽ có khá nhiều người nhầm lẫn đai châu với các loại lan khác như ngô đồng (hình thái thân lá khá giống nhau) hoặc sóc lào, sóc ta, đuôi cáo ( những chùm bông màu trắng tím khá giống nhau).

Phân biệt đai châu rừng và đai châu Thái như thế nào?

Hiện nay, do nhu cầu của người chơi lan ngày càng lớn, khoa học công nghệ phát triển, đặc biệt là công nghệ lai tạo tế bào mà rất nhiều những loài cây công nghiệp được ra đời bằng phương pháp nuôi cấy mô. Trong đó, đai châu Thái hay còn gọi là đai châu công nghiệp cũng đã ra đời làm khá nhiều người nhầm lẫn với đai châu rừng.

Phân biệt đai châu rừng và đai châu Thái qua thân lá

Đai châu Thái được nuôi trong môi trồng trong môi trường nhiệt độ và độ ẩm được kiểm soát, chính vì thế nó phát triển rất nhanh mà không bị mất lá chân hay xước xát gì. Đây cũng là đặc điểm dễ nhận biết lan đai châu Thái và đai châu rừng.

Đai châu Thái có lá thường ngắn, bản lá rộng và xếp rất khít nhau. Đai châu rừng thường có ít lá đẹp và rất nhiều vết xước trong quá trình khai thác và vận chuyển, chính vì thế đai châu rừng khi mới mua về thường xấu hơn đai châu Thái. Đai châu rừng thường có lá dài, bản lá nhỏ, lá thường có màu sáng màu do tiếp xúc với môi trường nhiều ánh nắng chứ không như đai châu Thái lá xanh mướt từ đầu đến chân. . Đai châu thái có lá xếp khít nhau nên chúng ta khó nhìn thấy thân của chúng, đai châu rừng lá thưa hơn nên để lộ phần thân rất dễ nhận biết.

Đai châu Thái khi mua về thường được trồng trong một chiếc chậu nhựa màu đen hay được ghép vào một miếng gỗ nho nhỏ, mỗi chậu thường từ 1 đến 2 thân. Lan đai châu rừng khi mua thường chỉ ở dạng hàng rời mà thôi, nếu bán kèm chậu thì cũng chỉ là người quen để cho.

Đai châu Thái khi mua người ta bán theo cây, đai châu rừng thường bán theo cân hoặc hàng to thì đếm lá tính tiền.

Đai châu trồng cực chậm lớn, tuy nhiên đai châu Thái có lợi thế lớn nhanh hơn đai châu rừng rất nhiều, đồng thời cho hoa sớm hơn. Với một cây đai châu Thái từ 4 đến 5 cặp lá là bắt đầu có thể cho hoa nhưng với đai châu rừng, 3-4 cặp lá lớn là cây già và có thể cho hoa tốt. Chính vì thế, nếu bạn để ý thấy cây đai châu có nhiều cặp lá xếp khít nhau cực xanh tốt thì đó 90% là đai châu thái.

Phân biệt đai châu rừng và đai châu Thái qua mặt hoa

Đai châu Thái cho nhiều mặt hoa khác nhau với màu sắc biến thiên cực kì đa dạng như màu bò sữa, đỏ cam, trắng tinh khôi, hồng cánh sen,… Mặc dù mặt hoa khác nhau nhưng đai châu Thái vẫn có khuôn hoa và chùm bông dài như lan đai châu rừng.

Mặt hoa đai châu rừng chỉ có 1 màu trắng đốm tím mà thôi, tuy nhiên lượng chấm tím có hoa ít, hoa nhiều vẫn làm nên nhẵng mặt bông khác biệt do vùng miền

Một số mặt hoa đai châu công nghiệp:

Lan đai châu cho hoa vào mỗi dịp Tết với thời gian chơi hoa có thể đến 1 tháng. Chính vì vậy lan đai châu được rất nhiều người ưa chuộng trồng trong vườn nhà của mình.

Châu rừng thơm hay châu công nghiệp thơm?

Có nhiều người nói rằng đai châu rừng thơm, đai châu công nghiệp thì không thơm. Tuy nhiên trên thực tế thì cả châu rừng và châu Thái đều có hương thơm đặc trưng, nhiều khi châu rừng lại không đậm mùi như châu Thái. Có lẽ dựa vào hương thơm thì đây không phải là một tiêu chí để đánh giá châu rừng hay Thái.

Nguồn: Chamlan.com