Quy Trình Chăm Sóc Cây Lúa / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Duhocaustralia.edu.vn

Quy Trình Trồng Và Chăm Sóc Cây Lúa

Cây lúa xuất xứ từ vùng nhiệt đới nên vùng khí hậu nóng ẩm là điều kiện thuận lợi cho cây phát triển.

Mỗi giống lúa có một nhu cầu về tổng tích nhiệt nhất định và thường: những giống ngắn ngày nhu cầu tổng tích nhiệt từ 2.500-3.000°C, giống trung ngày từ 3.000- 3.500°C và giống dài ngày từ 3.500 – 4.500°C. Căn cứ vào chỉ tiêu này mà lựa chọn giống theo cơ cấu mùa vụ cho phù hợp (Nếu thời gian mùa vụ ngắn và nền nhiệt độ thấp, nên chọn giống có tổng tích nhiệt thấp. Nếu thời gian mùa vụ dài và nền nhiệt độ cao, nên chọn giống có tổng tích nhiệt cao. Và cũng có thể căn cứ vào tổng tích nhiệt của giống để điều tiết các trà cấy trong vụ).

Phân bón giữ vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lúa “Nhất nước, Nhì phân, Tam cần, Tứ giống”. Vì vậy Để giúp Bà con Nông dân trồng Lúa có năng suất và mang lại hiệu quả kinh tế cao Công ty cổ phần phân bón Nhật Long Thanh Hoá xin “Hướng dẫn quy trình trồng và chăm sóc Cây lúa” như sau:

Đạm: Đóng vai trò quan trọng trong hình thành tế bào rễ, thân, lá, có nhiều trong bộ phận non hơn bộ phận già.

Cây hút đạm nhiều nhất vào thời kỳ để nhánh và làm đòng

Thiếu đạm: Cây thấp đẻ nhánh kém, phiến lá nhỏ, hàm lượng diệp lục thấp, lá chuyển vàng nhanh chóng, số bông ít, hạt ít, năng suất giảm.

Thừa đạm: Thân lá rậm rạp, hô hấp tăng lên, tiêu hao gluxit, nhánh đẻ vô hiệu nhiều, lúa trổ muộn, cây cao vóng, dẫn đến hiện tượng lốp đỗ

Lân: Xúc tiến bộ rễ lúa phát triển, tăng nhanh số nhánh đẻ, làm cho lúa trổ bông và chín sớm hơn

Cây hút lân nhiều vào thời kỳ đẻ nhánh và làm đòng

Thiếu lân: Lá lúa có màu xanh đậm, bản lá nhỏ, hẹp, lá dài ra và mềm yếu, rìa mép lá có màu vàng tía. Thiếu lân lúa đẻ kém, thời kỳ trổ bông và chín đều chậm lại và kéo dài, hạt lép, hàm lượng chất dinh dưỡng trong hạt ít.

LƯU Ý: Trong thời kỳ làm đòng nếu thiếu lân thì năng suất hạt giảm một cách rõ rệt

Kali: Giúp lúa cứng cây, chắc hạt, trong điều kiện âm u thiếu ánh sáng kali xúc tiến quá trình quang hợp của cây lúa.

Thiếu kali: cây lúa thấp, lá hẹp, màu xanh tối, lá mềm rũ xuống, lá phía dưới có màu đỏ nâu, lá khô dần từ dưới lên trên nhanh chóng, số lá xanh trên cây ít

Thời kỳ làm đòng thiếu kali gié bông thoái hóa nhiều, số hạt ít, trọng lượng hạt giảm, hạt lép, tỷ lệ bạc bụng cao và cây lúa dễ bị bệnh Tiêm lửa.

Thời vụ vô cùng quan trọng đảm bảo cho cây sinh trưởng thuận lợi nhất, ra hoa, làm hạt trong điều kiện khí hậu tốt nhất, có lợi cho việc hình thành năng suất.

Vụ mùa:

Trà sớm: Gieo mạ 20 – 30/5 cấy 25/6 – 5/7

Trà mùa trung: Gieo mạ 25/5 – 5/6 cấy trung tuần tháng 7 kết thúc trước 5/8 (lập thu)

Trà mùa muộn: Cấy trước 20 – 25/8

Vụ chiêm xuân:

Chiêm: Gieo cuối tháng 10 giữa tháng 11 cấy cuối tháng 12 tháng 1

Xuân sớm: Gieo mạ 15-25/11 cấy 15-25/1

Xuân chính vụ: Gieo mạ 20/11 đến 5/12 cấy 20/1 – 20/2

Xuân muộn: Gieo mạ 25/1- 5/2 cấy 25/2 – 5/3

Đất lúa cần phải được cày, bừa kỹ và nên tranh thủ làm sớm sau khi thu hoạch. Tùy thuộc địa hình và chân đất mà nên làm ruộng theo kiểu (làm dầm hay làm ải). Ruộng làm dầm phải giữ được nước, ruộng làm ải cần được phơi kỹ, giữa đợt nên cày đảo ải và tiến hành đổ ải trước cấy 5-7 ngày. Làm ải giúp tăng cường quá trình giải phóng dinh dưỡng trong đất, đồng thời hạn chế các độc tố gây hại cây trồng và giúp tiêu diệt tàn dư dịch hại trong đất. Tực tế trong sản xuất cha ông ta đã có câu “Một hòn đất nỏ bằng một giỏ phân”.

Đất lúa phải được cày sâu, bừa kỹ cho thật nhuyễn, mặt ruộng phải phẳng giúp thuận lợi cho cấy và điều tiết nước. Yêu cầu đất lúa trước khi cấy phải sạch gốc rạ và cỏ dại (lúa cấy mạ non ruộng càng phải được làm kỹ, mặt ruộng phải phẳng hơn và để mức nước nông) giúp lúa cấy xong phát triển thuận lợi.

– Tuổi mạ:

Tuổi mạ cấy tùy thuộc vào giống, thời vụ và phương pháp làm mạ. Để tính tuổi mạ có thể dùng ngày tuổi hoặc số lá. Ở vụ mùa tính tuổi mạ theo ngày tuổi (15-18 ngày), còn ở vụ đông xuân theo số lá (mạ dược 5-6 lá, mạ sân hoặc mạ trên nền đất cứng 2-3 lá).

– Mật độ cấy:

Vụ có nhiệt độ thấp cấy dầy hơn vụ có nhiệt độ cao (cấy 1-2 dảnh/khóm); vụ xuân cấy mật độ: 40-45 khóm/m2; vụ mùa cấy mật độ: 35- 40 khóm/m2

– Kỹ thuật cấy:

Cấy thẳng hàng, cấy nông 2-3 cm, cấy sâu sẽ làm cho lúa phát sinh 2 tầng rễ, các mắt đẻ ở vị trí thấp sẽ không phân hoá được mầm nhánh, lúa đẻ nhánh kém, số nhánh hữu hiệu giảm. Vụ chiêm xuân nhiệt độ thấp cần phải cấy sâu hơn vụ mùa để hạn chế tỷ lệ chết rét “Chiêm đào sâu chôn chặt, mùa vừa đặt vừa đi”.

Phân bón là yếu tố quyết định tới 50% năng suất

Phân chuồng hoai mục: 4,0-5,0 tạ/sào 500m 2; 8-10 tấn/ha

5.1. Bón lót:

Sử dụng sản phẩm ” Dinh dưỡng Nhật Long – Chuyên lót L1 ” để bón cho cây lúa trước khi gieo, cấy nhằm cung cấp đầy đủ và cân đối nhu cầu dinh dưỡng khoáng cho cây, giúp cây lúa nhanh bén rễ hồi xanh bước vào thời kỳ đẻ nhánh thuận lợi hơn.

Lượng dùng: 25kg/sào 500m2.

Sử dụng sản phẩm ” Dinh dưỡng Nhật Long – Chuyên thúc L2 ” để bón thúc đẻ nhánh (bón sau cấy 7-10 ngày), kết hợp làm cỏ sục bùn giúp cây lúa đẻ nhánh khỏe, đẻ tập trung, đạt tỷ lệ dảnh hữu hiệu cao.

Lượng dùng: 12- 15kg/sào 500m2.

Bón đón đòng vào lúc lúa đẻ nhánh tối đa, trước trỗ 30 – 35 ngày, có tác dụng phân hóa gié và hoa nhằm đạt số hạt/bông cao.

Nếu lúa sinh trưởng tốt có thể không bón đón đòng vì nếu bón lúa sẽ đẻ nhánh vô hiệu nhiều.

Bón nuôi đòng trước trỗ 10 – 12 ngày, có tác dụng kéo dài tuổi thọ lá, tăng khả năng quang hợp, có tác dụng nâng cao tỷ lệ hạt chắc và trọng lượng hạt.

LƯU Ý: KHÔNG SỬ DỤNG PHÂN THÊM

Khi lúa bắt đầu vào giai đoạn đẻ nhánh cần phải làm cỏ sục bùn: Diệt cỏ dại, bổ sung khâu làm đất, vùi phân tránh mất đạm, tăng nguồn cung cấp oxi giúp cho bộ rễ và vi sinh vật hoạt đọng tốt hơn, làm đứt rễ già, kích thích ra rễ mới.

Vụ xuân nên lấy nước làm áo, sau cấy luôn giữ một lớp nước nông trên mặt ruộng, vừa giữ ấm cho cây lúa giúp cây nhanh bén rễ hồi xanh đồng thời thuận lợi cho việc sử dụng thuốc trừ cỏ và ốc bươu vàng.

Khi cây lúa bắt đầu đẻ nhánh thực hiện phương châm quản lý nước theo công thức: Nông – Lộ – Phơi. Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hô hấp của cây, giúp lúa đẻ nhánh sớm, đẻ khỏe, đẻ tập trung (không để ruộng khô nhằm hạn chế cỏ mọc nhiều). Khi lúa đẻ nhánh kín đất tháo cạn nước để lộ chân chim giúp rễ lúa ăn sâu, tăng khả năng hấp thu dinh dưỡng và chống đổ cho cây về sau.

Thời kỳ chín sữa rút nước để lúa chín đều, thuận lợi khi thu hoạch

Không bón quá nhiều đạm để chống lốp đổ

Không tưới nước quá sâu

Không cấy quá dày

Chọn giống thấp cây, có khả năng chịu phân

Rút nước phơi ruộng, có chế độ tưới tiêu hợp lý.

Thời kỳ trổ đến chín là thời kỳ quyết định đến hạt lép và trọng lượng hạt, do đó ảnh hưởng đến năng suất lúa.

Nguyên nhân:

Tính di truyền giống

Lúa trỗ nghẹt đòng: do long cổ bông không phát triển bình thường làm cho cổ bông không thoát khỏi bẹ lá đòng, làm cho những gié, những hoa ở gốc bông không tiến hành nở hoa, thụ phấn được nên lép hạt.

Do bị hạn, rét lúc trỗ, thiếu dinh dưỡng bị sâu bệnh

Biện pháp khắc phục:

Bón phân, tưới nước vào thời kỳ trước và sau trỗ bông

Cấy đúng thời vụ để lúa trổ bông thuận lợi

Cỏ, Sâu, bệnh hại và biên pháp phòng trừ

Khi cây lúa bén rễ hồi xanh thì bắt đầu làm cỏ kết hợp với sục bùn và bón thúc. Tuỳ vào giống lúa ngắn hay dài ngày có thể tiếp tục làm cỏ sục bùn từ 1-2 lần nữa và kết thúc trước khi lúa bước vào thời kỳ làm đòng. Làm cỏ sục bùn có tác dụng diệt cỏ dại, vùi phân tránh mất đạm, bổ sung ô xy cho rễ, làm đứt rễ già và kích thích ra rễ mới.

7.2. Sâu hại và biện pháp phòng trừ – Bọ trĩ: Stenchaetothrips biformis Bagnall

Bọ trĩ là loại sâu bệnh hại lúa phổ biến thường thấy, bọ trĩ thường gây hại khi lúa còn non ở giai đoạn mạ, lúa lúa hồi xanh và đang đẻ nhánh.

Lúa xuân muộn (tháng 3,4) thường bị hại nặng hơn cả. Lúa gieo thẳng bị hại nặng hơn lúa cấy. Những năm khô hạn thích hợp cho bọ trĩ phát sinh rộ. Ruộng lúa càng khô hạn thì thiệt hại do bọ trĩ gây ra càng lớn.

Biện pháp phòng trừ bọ trĩ:

+ Vệ sinh đồng ruộng, làm sạch cỏ dại, nhất là cỏ môi là ký chủ chính của bọ trĩ.

+ Gieo cấy mật độ vừa phải, giữ nước không để ruộng khô.

+ Thường xuyên kiểm tra đồng ruộng phát hiện và phun tuốc kịp thời. Dùng các loại thuốc Regent 800WG, Hopsan 75EC, Selecron 500EC hoặc Actara 25WP phun khi bọ trĩ phát sinh rộ.

– Sâu cuốn lá nhỏ: Medinalis Guenee

Sâu cuốn lá nhỏ à loại sâu bệnh hại lúa gây hậu quả nghiêm trọng đối với cây lúa. Gây hại từ khi lúa đẻ nhánh tới khi lúa ngậm sữa. Quan trọng nhất là giai đoạn lúa đẻ nhánh làm đòng. Những năm có khí hậu mát mẻ, ẩm độ cao, mưa nắng xen kẽ thường phát sinh nặng.

Biện pháp phòng trừ sâu cuốn lá:

+ Vệ sinh đồng ruộng, diệt trừ cỏ dại (nơi trú ngụ qua đông của sâu).

+ Gieo cấy mật độ thích hợp, chăm sóc bón phân hợp lý.

+ Bẫy đèn diệt bướm và thường xuyên kiểm tra đồng ruộng. Khi sâu non có mật độ 9 – 12 con/m 2 (giai đoạn lúa đẻ nhánh) và 6 – 9 con/m 2 (giai đoạn lúa làm đòng) cần phun thuốc. Dùng các loại Regent 800WP, Karate 2.5EC… phun khi sâu non tuổi 1-2 bằng các thuốc có hoạt chất: Indoxacarb (Obaone 95 WG … ), Flubendiamide (Takumi 20WG…), Chlorantraniliprole (Virtako 40WG, Prevathon 5 SC, Voliam targo 063SC)

– Sâu đục thân 2 chấm: Scirpophaga incertulas Walker

+ Thời kỳ mạ hoặc đẻ nhánh, sâu đục thân đục qua bẹ phía ngoài vào đến nõn giữa cắn phá làm cho dảnh lúa bị héo.

+ Thời kỳ sắp trỗ hoặc mới trỗ, sâu đục thân đục qua bao của lá đòng chui vào giữa rồi bò xuống đục ăn điểm sinh trưởng, cắt đứt các mạnh dẫn dinh dưỡng làm cho bông lép trắng.

Biện pháp phòng trừ:

+ Vệ sinh đồng ruộng: Cày lật gốc rạ, phơi ải sau khi thu hoạch.

+ Bón phân cân đối, hợp lý

+ Biện pháp thủ công: Dùng bẫy đèn bắt trưởng thành, ngắt ổ trứng đem tiêu hủy.

+ Biện pháp hóa học: Phun trừ đối với ruộng lúa khi mật độ ổ trứng từ 0,3 ổ/m 2 trở lên, những nơi có mật độ trên 0,5 ổ/m 2 ‘ cần tiến hành phun kép 2 lần, cách nhau 4-5 ngày. Phun trừ bằng các loại thuốc có hoạt chất Chlorantraniliprole (Virtako 40WG, Prevathon 5 SC, Voliam targo 063SC).

– Rầy nâu: Nilaparvata lugens Stal

Rầy nâu thích hợp với điều kiện khí hậu nóng, ẩm độ cao, mưa nắng xen kẽ. Rầy xâm nhập vào ruộng lúa ngay từ khi mới cấy và hại cả trên mạ. Cao điểm rầy phát sinh mật độ lớn và gây hại năng vào giai đoạn lúa trỗ xong, giai đoạn ngậm sữa và bắt đầu chín.

Ở miền Bắc mùa đông lạnh nên có 2 đỉnh cao và gây cháy rầy vào các tháng 5 (vụ xuân) và cuối tháng 9 đầu tháng 10 (vụ mùa) trùng với giai đoạn lúa trỗ – ngậm sữa. Rầy nâu còn là vectơ truyền bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá hại lúa.

Biện pháp phòng trừ:

– Sử dụng giống kháng rầy nâu.

– Gieo cấy mật độ thích hợp, bón phân cân đối, thả vịt vào ruộng lúa diệt rầy, (khi mật độ rầy cám từ 18- 27 con/khóm lúa cần phun thuốc diệt rầy).

– Dùng các loại thuốc có khả năng nội hấp lưu dẫn tốt phu không cần rẽ lúa như: Hoạt chất Pymetrozine (Chess 50WG) Nitenpyram (Acdinosin 50WP.. ) lưu ý phun trước khi lúa đỏ đuôi.

7.3. Bệnh hại lúa

– Bệnh đạo ôn: Pirycularia oryzae Cav

Bệnh đạo ôn hại lúa ở các bộ phận trên cây nhưng rõ nhất trên lá, cổ bông, đốt thân

Biện pháp phòng trừ:

Dọn sạch tàn dư rơm, rạ và cây cỏ mang bệnh ở trên đồng ruộng;

+ Bón phân NPK hợp lý, đúng giai đoạn, không bón đạm tập trung vào thời kỳ lúa dễ nhiễm bệnh. Khi có bệnh phải tạm ngừng bón thúc đạm và tiến hành phun thuốc phòng trừ.

+ Chọn giống kháng hoặc giống ít nhiễm;

+ Giữ nước thường xuyên cho ruộng lúa nhất là khi có dịch bệnh;

+ Khi phát hiện ổ bệnh trên đồng ruộng cần tiến hành phun thuốc trừ sớm và nhanh. Một số loại thuốc hoá học sử dụng để phòng trừ bệnh như Fuji -one 40WP, Bump 650WP, Filia 525SE, Kasai-S 92SC, Kabim 30WP, abum 650WP, Bankan 600WP, Bemsuper 75WP, Katana 20SC, Fu-army 40EC,…

– Bệnh khô vằn: Rhizoctonia solani Kuhn

Là loại bệnh hại lúa toàn thân, bệnh gây hại bẹ lá, phiến lá và cổ bông. Các bẹ lá sát mặt nước hoặc bẹ lá già ở dưới gốc thường là nơi phát sinh bệnh đầu tiên. Trên bẹ lá xuất hiện các vết đốm hình bầu dục màu lục tối hoặc xám nhạt, sau lan rộng ra thành dạng vết vằn da hổ dạng đám mây. Khi bị nặng, cả bẹ lá và lá phía trên bị chết lụi.

Biện pháp phòng trừ:

+ Làm vệ sinh đồng ruộng, thu gom sạch tàn dư cây bệnh từ vụ trước. Cày bừa, xới đất kỹ để chôn vùi hạch nấm, hạn chế sức sống của chúng;

+ Không dùng hạt giống ở những ruộng bị nhiễm bệnh. Cấy lúa dày vừa phải, bón cân đối NPK, phân chuồng trước khi bón phải được ủ hoai mục.

+ Kiểm tra đồng ruộng, phát hiện và phun trừ những diện tích lúa bị nhiễm bệnh khô vằn (có tỷ lệ từ 20% số dảnh bị bệnh), đặc biệt những ruộng lúa đang làm đòng, những ruộng lúa xanh tốt. Các loại thuốc hóa học có thể sử dụng để phun trừ bệnh như: Camilo 150SC, Chevil 5SC, Tilt super 300EC, Nevo 330EC, Anvil 5SC, Rovral 50WP, Callihex 5SC, Hecwin 5SC, chúng tôi 5SC, Til calisuper 300EC,…

– Bệnh bạc lá: Xanthomonas oryzae

Thường bệnh xảy ra lúc mưa to và gió lớn. Lúa vụ mùa một số giống có tiềm năng năng suất cao thường hay bị bệnh bạc lá. Bệnh do vi khuẩn Xanthomonas Oryzea gây ra, khi mắc bệnh thì cây không có khả năng quang hợp để tạo dinh dưỡng nuôi hạt, từ đó những ruộng lúa bị bệnh bạc lá tỷ lệ lép rất cao, làm giảm năng suất rất lớn, có thể mất trên 50% năng suất.

Biện pháp phòng trừ:

+ Biện pháp cơ bản nhất là dùng giống chống bệnh và Bón phân cân đối, hợp lý giữa đạm, lân, kali. Đặc biệt yếu tố đạm.

+ Vụ mùa thường có mưa giông lớn những giống mẫn cảm dễ bị bệnh nặng hơn nên hạn chế cấy giống nhiễm ở vụ này

+ Sử dụng hạt giống sạch bệnh. Xử lý hạt giống ở 54 0 C trong 15 phút.

+ Khi bệnh tiến hành phun thuốc phòng trừ: Sasa, Startner, Xanthomic, Steptomicin Fisan (lúa vàng), Kasumin và các thuốc có nguồn gốc kháng sinh khác. Tuy nhiên, biện pháp này hiệu quả thấp.

Ít nhất là 85% những hạt trên bông có màu vàng (đã chín), hầu hết các hạt ở cổ bông đã chín sáp.

Nên thu hoạch lúa giống lúc trời nắng.

Quy Trình Kỹ Thuật Bón Phân Cho Lúa

Hiểu và nắm rõ được quy trình canh tác và kỹ thuật bón phân cho lúa sẽ giúp cho lúa vụ mùa của bà con nông dân phát triển, tăng trưởng mạnh, cứng cây để tránh được với tình hình biến đổi khí hậu và sâu bệnh hại lúa như hiện nay.

Lợi ích của việc bón phân cho lúa theo bảng so màu 

Bón cân đối giữa Đạm và Kali, phối hợp hài hoài giữa phân bón gốc và phân bón lá. Ở giai đoạn đẻ nhánh (18-22NSS) và làm đòng (40-45NSS) bà con sử dụng bảng so màu lá để điều chỉnh lượng phân bón đạm cho phù hợp để cây lúa phát triển và quang hợp tốt

Bảng màu so sánh lá lúa để người nông dân điều chỉnh lượng phân bón cho lúa phù hợp 

Tác dụng của một số loại phân bón cho lúa 

Phân đạm: Bón phân đạm giúp cho cây phát triển thân, lá, cây to khoẻ và cho bông lớn. Bà con không nên bón lai rai, bón dư đạm cây phát triển lá nhiều tán lá rậm rạp, nhiều chồi lúa vô hiệu là nguồn thức ăn hưu hiệu cho râỳ nâu, các loại bệnh như đạo ôn, bạc lá dẫn đến cây lúa bị lép nhiều không đạt năng suất. Phân lân: Giúp cho cây lúa phát triển bộ rễ khoẻ, tốt nảy nhiều chồi và hạ phèn. Dùng phân lân bón lót hoặc bà con bón hết lượng lân vào đợt 1 và đợt 2. Phân kali: Kali giúp cho cây lúa hấp thụ được các chất dinh dưỡng tốt làm cho cây lúa cứng cây, giảm được sâu bệnh hai lúa, giúp cây lúa chị hạn tốt, vận chuyển các chất đường bột tốt (hạt lúa vào chắc nhanh). Nên bón phân kali vào đợt 1 và đợt 3. Bà con lưu ý khi sử dụng phân bón lá:

Ruộng phải có nươc.

Phun đúng vào giai đoạn ta cần điều khiển.

Phải phun theo đúng nồng độ, phun quá liều sẽ không có tác dụng.

Thời điểm và liều lượng phân bón 

Áp dụng cho các giống có thời kỳ sinh trưởng từ 90 – 100 ngày 

Được chia ra thành các đợt như sau:

Bón lót: Trước khi gieo, sạ. Vùng đất nhiễm phèn nên bón lót phân lân từ 100 – 400kg/ha tuỳ vào độ phèn của đất, làm giảm độ phèn ngày từ đầu, bộ rễ cây lúa sẽ phát triển tốt hơn.​

Đợt 1: 7 – 10 ngày sau sạ (NSS): Bà con nên bón phân đợt 1 sớm nhằm giúp cho cây lúa phát triển tốt ngày từ ban đầu. Bón Urea + Lân, cần thiết thì bón thêm Kali.​​ 

Bà con lưu ý: phải đưa nước vào ngập ruộng 5cm trước khi bón phân cho lúa. Bù lạch thường gây hại ở giai đoạn này cần thăm non ruộng lúa thường xuyên.

Đợt 2: 18 – 22NSS: Bón Urea + Lân. Lưu ý bón vào những chỗ xấu để điều chỉnh độ đồng đều của ruộng lúa. Đối với ruộng sạ mật độ thấp hoặc giống nẩy chồi kém, sử dụng phân bón hữu cư Đẻ Nhánh phun ngay sau khi bón phân để làm gia tăng số chồi hữu hiệu. Bệnh đạo ôn, đốm vằn, sâu phao, sâu đục thân, sâu cuốn lá phát triển trong giai đoạn này vậy nên bà con cần chú ý thăm non để phòng trừ bênh hại lúa.

Đợt 3: Bón phân đón đòng:  Áp dụng theo nguyên tắc không ngày không số. Sau khi rút nước giữa vụ (30 – 40NSS) để cây lúa vàng 2/3 ruộng, bà con cần cho nước vào và bón đợt 3. Định mức phân bón tuỳ thuộc vào màu sắc của ruộng như sau:

Vàng tranh: 50kg Urea + 50kg Kali/ha

Xanh vàng: 25kg Urea + 75kg Kali/ha

Xanh đậm: Chỉ cần bón 100kg Kali/ha

Sau khi bón phân phải giữ nước đến lúa chín sáp vì ở vào giai đoạn này nếu để ruộng khô thiếu nước cây lúa sẽ bị lép. Bà con sử dụng phân bón trung lượng LP123 Amino – Canxi Mập Đòng giúp cây lúa làm đòng và trổ đòng tốt, khoẻ

Đợt 4: 55 – 72NSS: Khi cây lúa có triệu chứng thiếu phân ở giai đoạn trổ bông lẹt sẹt cần bón thêm phân Ure. Tốt nhất nên phun phân bón lá xanh lá đòng vào 2 giai đoạn 55 ngày sau sạ (trước trổ bông 1 tuần) và lúc cây lúa cong trái me (72 ngày sau sạ). Bà con lưu ý thường xuyên thăm nom ruộng lúa để phòng chống sâu bệnh hại lúa.

Chia sẻ:

Quy Trình Chăm Sóc Cây Ớt

Cây ớt là loại cây dễ trồng dễ thích nghi, thuộc vào cây ngắn hạn mang lại hiệu quả kinh tế cao cho bà con nông dân. Tuy nhiên nó cũng chính là nhược điểm bởi chúng rất dễ dâu bệnh hại. Vậy làm thế nào để cây khỏe mạnh và sạch sâu bệnh, đạt năng suất mong muốn? Bài viết này, điện máy xin chia sẻ quy trình chăm sóc cây ớt cho bà con.

Sau khi trồng, cây ớt cần phải được chăm sóc cẩn thận tránh những sâu bệnh kém hiệu quả cũng như năng suất.

Cây ớt là loại cây chịu úng kém chính vì vậy nên có cống thoát nước tố vào mùa mưa, mùa khô thì tưới đầu đỉ nước. Theo các chuyên gia nông nghiệp thì nên tưới ở rãnh chúng sử dụng cơ chế thấm thấu vừa tiết kiệm được nước, giữ ẩm lâu và hiệu quả cho bón phân.

– Làm giàn: Thường thì giàn được làm bằng cây hay dây ni lông. Mỗi hàng ớt cắm 2 trụ cây lớn ở 2 đầu, dùng dây căng dọc theo hàng ớt nối với 2 trụ cây, khi cây ớt cao tới đâu căng dây tới đó để giữ cây đứng thẳng hoặc có thể mỗi cây ớt cắm một cây cọc

– Tỉa cành: Nên tỉa vào những ngày nắng ráo, tỉa bỏ các cành, lá ở dưới cành để cây ớt phân tán rộng và gốc được thông thoáng, chúng hạn chế được sâu bệnh.

Khi bón phân cần kiểm tra kỹ lưỡng độ dinh dưỡng có trong đất để có liều lượng phù hợp. Hiện nay hầu hết bà con ai cũng sử dụng máy đo độ dẫn điện xác định, ngoài kiểm tra dinh dưỡng trong đất, chúng còn kiểm tra được TDS, độ mặn hay nhiệt độ. Có máy mó bà con dễ dàng chăm sóc cây.

Liều lượng phân bón cho 1000m2 gồm có bón phân gốc và bón phân lá

Bón lót: 1 – 1,5 tấn phân chuồng ủ hoai + 20 kg phân N.P.K 16-16-8 + 1 kg HỢP TRÍ Super Humic + 2 kg Micromate (trung vi lượng) + 2 kg Basudin 10 H.

Bón thúc lần 1 (25 – 30 ngày sau trồng): 30 kg N.P.K 16-16-8 + 1 kg HỢP TRÍ Super Humic.

Bón thúc lần 2 (45 – 50 ngày sau trồng): 30 kg N.P.K 16-16-8 + 5 kg Ure + 5 kg Nitrabor.

Bón bổ sung khi đang thu hoạch trái: 20 kg N.P.K 16-16-8 + 250 g HỢP TRÍ Super Humic ngâm chung để tưới 5 – 7 ngày 1 lần (có thể trộn chung để rắc vào giữa 2 cây ớt nếu không phủ bạt).

Dùng phân bón lá nhằm mục đích bổ sung những dưỡng chất cây đang thiếu hoặc khó hấp thu qua rễ để giúp cây sinh trưởng khỏe, chắc chắn, cho năng suất cao nhưng trái có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, đồng thời cũng tăng sức đề kháng với sâu bệnh hại và điều kiện thời tiết bất lợi.

– Ngày thứ 7 – 14 sau khi trồng: phun Hydrophos liều 50 ml/bình 16 lít, giúp cây chống đén, cây thành thục và ra hoa sớm, ra hoa đồng loạt.

Ngày thứ 20 – 27 sau trồng: phun Bud Booster, có chứa kẽm, ma-nhê, bo nhằm tăng khả năng quang hợp, thúc ra tược và dưỡng lá, cây có bộ tán sum suê nhưng cứng chắc, lá xanh bền, tăng đề kháng với bệnh hại. Liều lượng 20 g/bình 16 lít.

Ngày thứ 30 – 37 sau trồng: phun Bortrac (20 ml/bình 16 lít) giúp cây thụ phấn và đậu trái tốt, không bị rụng cù nèo.

Khi trái đang phát triển: Phun 2 loại phân bón lá Caltrac + HỢP TRÍ HK 7-5-44+TE (15 ml + 40 g/bình 16 lít), 5 – 6 ngày/lần phun giúp trái đẹp nặng cân, tránh úng thối và nổ trái

Ngoài ra, bà con nên thường xuyên kiểm tra đồng ruộng, loại bỏ lá già, lá sâu bệnh, phát hiện và phòng trừ kịp thời các loài dịch hại.

Trên đay là hướng dẫn chăm sóc cây ớt cơ bản và hiệu quả nhất hi vọng thông tin giúp ích cho bà con nông dân. Mọi thawvs mắc xin vui lòng liên hệ với chúng tôi qua hotline: 0978.455.263

Bài viết khác

Quy Trình Chăm Sóc Cây Sầu Riêng

I. Trồng cây chắn gió

Sầu riêng tuy là cây to, nhưng gỗ lại giòn dễ gãy, vì thế cần trồng những hàng cây cao lớn, chắc chắn, khó đỗ gãy xung quanh vườn sầu riêng, để tránh đổ cây gãy cành, rụng trái… đồng thời hàng cây chắn gió này còn giúp điều hòa nhiệt độ và ánh sáng trong khu vườn.

Cây trồng để chắn gió cần chọn những loại cây phát triển nhanh, mạnh, dẻo dai, rễ cọc ăn sâu, không hoặc ít bị những loại sâu bệnh thường gây hại nhiều cho cây sầu riêng. Theo kinh nghiệm của nhà vườn ở những tỉnh phía Nam thì có thể dùng một số loại cây như Mít, cóc, dừa, phi lao, bạch đàn, xoài, xà cừ…

II. Làm cỏ, xới xáo, trồng xen che phủ đất

Thường xuyên làm cỏ, vệ sinh vườn tược, xới xáo cho đất tơi xốp và sạch cỏ dại. Mùa khô nên tủ gốc bằng rơm rạ, cỏ khô, lá cây…để giữ ẩm.

Cây trồng xen phải trồng cách xa gốc cây sầu riêng ít nhất là 0,5 mét. Phải làm sạch cỏ xung quanh gốc gốc để hạn chế độ ẩm vùng xung quanh gốc để hạn chế bớt tác hại của nấm Phytophthor cho cây sầu riêng. Vào mùa khô dùng rơm rạ, cỏ khô…phủ xung quanh gốc một lớp dày khoảng 10-20cm (Cách gốc 20 cm để vùng gốc luôn khô ráo) để giữ ẩm cho cây. Vào mùa mưa gỡ bỏ lớp che phủ.

III. Bồi mô, bồi liếp, vun gốc

Đối với những vùng đất thấp phải dắp mô để trồng thì những năm đầu mỗi năm phải bồi thêm đất vào chân mô để mở rộng chân mô. Từ năm thứ 3 thứ 4 trở đi thì bồi đất lên mặt liếp mỗi năm một lần vào đầu mùa khô để nâng dần độ cao của liếp.

Đối với những vùng đất cao đào hốc và trồng trực tiếp trên mặt vườn thì hàng năm dùng đất tốt vun rải một lớp mỏng vào xung quanh gốc.

hàng năm, kết hợp với mỗi lần bón phân làm gốc cần xới nhẹ xung quanh gốc ( đường kính khoảng 1,2-1,5 mét) sâu 5 cm.

IV. Tưới nước

Mặc dù là cây sợ ngập úng, nhưng cây sầu riêng lại rất cần nước, đặc biệt là thời kỳ cây con và giai đoạn ra hoa kết trái. Mùa khô cần tưới nước thường xuyên để đảm bảo đủ ẩm cho cây. Vào giai đoạn cây đang ra hoa kết trái chỉ cần tưới đủ ẩm , tránh tưới quá nhiều dễ gây rụng hoa , rụng trái và sau này cơm trái có thể bị nhão.

Để hạn chế bốc hơi nước trong mùa khô nên dùng rơm rạ, cỏ khô tủ xung quanh gốc, nhưng đến mùa mưa thì phải gỡ bỏ sạch sẽ lớp che phủ này để gốc không bị ẩm ướt. Trong vườn cần có hệ thống thoát nước để kịp thời thoát nước mỗi khi có mưa, tránh vườn bị ngập úng, ẩm ướt, tạo điều kiện cho nấm bệnh gây thối rễ phát triển.

V. Bón phân

Lượng phân bón nhiều hay ít tùy thuộc vào tuổi cây đã lớn hay còn nhỏ, mức độ sinh trưởng của cây tốt hay xấu, đất đai màu mỡ hay cằn cỗi…

Lượng phân bón cho mỗi cây sầu riêng như sau:

Năm thứ nhất khoảng 0,2-0,3 kg Urea, 0,3 kg Super Lân và 0,1 kg Sulfat Kali. Còn ở năm thứ hai và thứ ba thì mỗi năm bón khoảng 0,7 kg Urea, 0,6 kg Super Lân và 0,2 kg Sulfat Kali

Cách bón và thời điểm bón phân: Chia ra làm 2 lần bón vào đầu mùa mưa và cuối mùa mưa. Ngoài ra, ở những năm đầu mỗi năm bón 10-15 kg phân hữu cơ cho một cây.

Khi cây đã bắt đầu cho trái mỗi năm bón cho mỗi cây khoảng 1 kg Urea, 1,5 kg Super Lân và 0,5 kg Sulfat Kali và 15-20 kg phân hoai mục. Số phân này được này được chia ra bón làm 3 lần như sau:

Lần 1: 1/3 Đạm, 1/2 Kali trước lúc cây ra hoa.

Lần 1: 1/3 Đạm, 1/2 Kali khi trái có đường kính 10-15 cm.

Lần 3: 1/3 Đạm, toàn bộ phân Lân và phân hữu cơ hoai mục.

Khi cây đã bước vào giai đoạn cho trái ổn định, có thể bón như sau:

Lần 1: Sau khi thu hoạch trái, tiến hành cắt tỉa cành và bón khoảng 20-30 kg phân hữu cơ cho một cây, 0,7 kg Urea, 1,1 kg Super Lân và 0,15 kg Sulfat Kali và 0,05 kg Sulfat Magie. Khi cây lớn có thể tăng lượng phân này lên gấp đôi.

Lần 2: Bón trước khi cây ra hoa 30-40 ngày, giai đoạn này cây cần nhiều Lân để xúc tiến quá trình phân hóa mầm hoa và ra hoa thuận lợi, vì thế cần tăng cường thêm phân Lân. Tỷ lệ pha trộn phân NPK lần này là 10:50 và 7. Liều lượng cụ thể của từng loại phân đơn để pha trộn như sau: cú 1,2 kg Ure thì trộn với 17 kg super Lân và 1,8 kg Sulfat Kali, và bón cho mỗi cây khoảng 2-3 kg hỗn hợp phân này.

Lần 3: Bón vào giai đoạn trái lớn cỡ trứng gà để nuôi trái. Lần bón này chú ý tăng cường thêm phân Đạm, Kali và bón thêm Magie. Tỷ lệ pha trộn các loại phân này với nhau là 12:12:17:2. Cụ thể là cứ 3,7 kg Ure + 11kg Super Lân + 5 kg Sulfat Kali + 0,3 kg Magie. Và bón cho mỗi gốc khoảng 2-3 kg hỗn hợp này.

Lần 4: Trước khi thu hoạch trái khoảng 1 tháng , bón cho mỗi gốc khoảng 2-3 kg phân NPK loại 16:16:8, kết hợp với 1-1,5 kg KNO3. không nên bón trễ hay sớm hơn vì sẽ làm cho trái sượng hoặc nhão.

Cách bón: Hai năm đầu pha phân loãng trong nước rồi tưới xung quanh gốc. Từ năm thứ 3 trở đi xới một lớp mỏng đất xung quanh gốc rồi rải phân sau đó phủ lớp đất hoặc rơm rạ, cỏ khô…lên trên, tưới nước cho phân tan và nằm xuống đất cung cấp dần cho cây. Đối với phân hữ cơ thì đào rãnh xung quanh gốc theo hình chiếu của tán cây, rãnh rộng 0,3 mét, sâu 0,3-0,4 mét rải phân xuống rồi lấp đất.

VI. Cắt tỉa tạo tán

Việc cắt tỉa tạo tán phải được làm sớm ngay từ khi cây còn nhỏ. Mỗi cây chỉ để một thân chính mọc thẳng, trên cây mang nhiều cành cấp 1 mọc ngang tạo với thân chính một góc 450-900 độ, chỉ chừa lại những cành khỏe, mọc đều cành nọ cách cành kia ít nhất 30 cm. Cắt bỏ những cành sườn nhỏ yếu, mọc quá gần nhau , những cành mọc thấp dưới 1 mét kể từ mặt đất. Tsaoj cho vườn cây luôn thông thoáng, giúp cho cây thụ phấn thuận lợi. Hàng năm sau khi thu hoạch, cần tỉa bỏ những cành nhỏ mọc đứng, cành bên trong tán, cành ốm yếu, cành biij sâu bệnh hại nặng, cành mọc quá gần mặt đất, cành bị chết khô, dập gãy…kết hợp với việc bón phân làm gốc cho cây.

VII. Tỉa hoa, tỉa bỏ bớt trái trên cây

Sầu riêng là cây cho rất nhiều hoa, số lượng hoa cao hơn rất nhiều lần so với số lượng trái cần có trên cây, nếu gặp điều kiện thuận lợi cho việc thụ phấn thụ tinh cho hoa thì cây sẽ cho khá nhiều trái, như vậy cây sẽ không đủ dinh dưỡng cung cấp nuôi hết số hoa số trái trên cây, nên cần phải tỉa bớt để tránh việc cạnh tranh dinh dưỡng làm rụng hoa hoặc hoa phát triển không đầy đủ, ảnh hưởng đến thụ phấn, thụ tinh, đậu trái. Khi đã đậu trái cũng cần tỉa bỏ những chỗ trái mọc dày, trái bị méo mó, trái bị sâu bệnh…

Cây sầu riêng thường ra 2-3 đợt trái trong năm, nhà vườn nên cân nhắc, tính toán sao cho việc tỉa bỏ đợt nào, giữ lại đợt nào để có lợi nhất. Sau khi đậu trái, mỗi cành cũng chỉ nên để lại 3-5 trái là vừa.

Tỉa làm 3 lần:

Lần 1: Vào tuần thứ 3-4 sau khi hoa nở, trước khi trái bước vào giai đoạn phát triển nhanh. Lần này cần tỉa bỏ những trái ở chỗ mọc dày đặc, những trái nhỏ, dị hình hoặc bị sâu bệnh trên chùm, mỗi chòm chỉ nên để lại một rái.

Lần 2: Vào tuần thứ 8 sau khi hoa nở. Tỉa bớt những trái phát triển không bình thường, nhỏ, không cân đối, méo mó để điều chỉnh lại cân bằng về mặt dinh dưỡng, giúp cho quá trình tạo cơm trái được thuận lợi.

Lần 3: Vào tuần thứ 10 sau khi hoa nở. Tỉa bỏ những trái có hình dạng không đặc trưng của gióng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phất triển của cơm, kích thước và hình dạng trái.

VIII. Thụ phấn bổ sung

Hoa sầu riêng là hoa lưỡng tính, thường nở vào khoảng 17-18 giờ . Ngay từ khi hoa hé nở cho đến sáng hôm sau núm nhụy cái đã sẵn sàng nhận hạt phấn của nhị đực để thụ tinh. Nhưng bao phấn của nhị đực lại chỉ bắt đầu nứt và tung phấn vào lúc 19-20 giờ cho đến khoảng 23 giờ đêm thì chấm dứt vì nhị đực bị rụng tự nhiên.

Vì vậy từ nửa đêm trở về sáng trên hoa chỉ còn lại nhụy cái, còn các phần tử khác của nhị đực , lá đài phụ, lá dài trong và các cánh hoa đã bị rụng từ nửa đêm. Vì thế vào buổi tối nếu thời tiết tốt, không có mưa gió và côn trùng hoạt động mạnh thì hoa sầu riêng sẽ thụ phấn dễ dàng, thuận lợi. Ngược lại, vào thời gian từ 19-23 giờ nếu gặp điều kiện bất lợi, núm nhụy cái không nhận được hạt phấn nào thì sau đó hoa sẽ tự rụng.

Như vậy hoa sầu riêng có khả năng tự thụ phấn để đậu trái , nhưng nếu gặp điều kiện bất lợi thì khả năng tự thụ phấn sẽ không cao, tỷ lệ đậu trái sẽ ít. Đặc biệt, trái tự thụ phấn thường nhỏ, hình dạng không cân đối so với những trái được thụ phấn chéo. Vì vậy, nếu có điều kiện nên giúp cây thụ phấn thêm bằng tay vào lúc 20-22 giờ đêm để quá trình thụ phấn được diễn ra đầy đủ trên đầu nhụy, nhằm tạo ra những trái sầu riêng đầy đặn không bị lép.

Thụ phấn bằng tay có thể tiến hành như sau: Vào buổi sáng cắt một số hoa của cây giống dùng làm bố, cắt lấy các chùm nhị được cho vào đĩa sứ hoặc thủy tinh trên phủ kín bằng vải màn rồi đặt vào nơi khô ráo, thoáng mát đến chiều là bao phấn nơ, tung phấn.

Đến tối gỡ bỏ cuống nhị và xác bao phấn gom phấm lại. Vào khoảng 20-22 giờ đêm dùng một cây bút lông (cây cọ) nhỏ chấm vào phấn rồi phết nhẹ vào đầu nhụy của hoa trên cây mẹ để truyền hạt phấn đến đầu nhụy giúp quá trình thụ tinh diễn ra dễ dàng.

Ngoài giúp cây thụ phấn bằng tay, có thể áp dụng biện pháp trồng xen các giống sầu riêng khác nhau trong cùng một vườn để trăng khả năng thụ phấn chéo cho cây.