Hiện nay nhiều nơi vẫn canh tác giống địa phương là chính. Giống trồng phổ biến ở
Đồng bằng Sông Cửu Long có giống Sừng Trâu, Chỉ Thiên, ớt Búng, ớt Hiểm, ở miềnTrung có giống ớt Sừng Bò, Chìa Vôi. Ngoài ra Viện Nghiên Cứu Nông nghiệp Hà Nội công bố bộ sưu tập với 117 giống nội địa (1987), điều này chứng minh nguồn giống ớt phong phú, đa dạng chưa được biết đến ở nước ta. Tuy nhiên, giống địa phương bị lai tạp nên thoái hóa, quần thể không đồng đều và cho năng suất kém, trong khi các giống F1 có khả năng cho năng suất vượt trội trong điều kiện thâm canh cao nên bắt đầu được ưa chuộng và đang thay thế dần các giống địa phương.
1.1. Giống lai F1:
– Giống Jet 18 (Công ty Syngenta sản xuất): Cây sinh trưởng khỏe, phân cành và ra
hoa sớm, đậu quả tập trung, thu hoạch từ 75-80 ngày sau khi trồng; năng suất cao, ở điều kiện chăm sóc tốt có thể đạt 15-20 tấn/ha. Dạng trái dài 6-7cm, đẹp, đều, thẳng, cứng, bóng láng, màu sắc đỏ tươi được thị trường ưa chuộng. Jet18 chống chịu tốt với nhiều sâu bệnh hại quan trọng.
– Giống Chili (Công ty Trang Nông phân phối): Trái to, dài 12-13 cm, đường kính trái
1,2-1,4cm; trọng lượng trung bình trái 15-16 gram, dạng trái chỉ địa, trái chín đỏ, cứng, cây trung bình, phù hợp thị hiếu người tiêu dùng. Cây cao trung bình 75-85 cm, sinh trưởng mạnh, chống chịu bệnh tốt và cho năng suất cao.
– Giống số 20 (Công ty Giống Miền Nam phân phối): sinh trưởng mạnh, phân tán lớn, ra nhiều hoa, dễ đậu trái, bắt đầu cho thu hoạch 85-90 ngày sau khi cấy, cho thu hoạch dài ngày và chống chịu tốt bệnh virus. Trái ớt chỉ địa dài 14-16 cm, thẳng, ít cây, trái cứng nên giữ được lâu sau thu hoạch, năng suất 2-3 tấn/1.000m2
– Giống TN 16 (Công ty Trang Nông phân phối): Cho thu hoạch 70-75 ngày sau khi
gieo, trái chỉ thiên khi chín đỏ tươi, rất cay, dài 4-5 cm, đường kính 0,5-0,6cm, trọng
lượng trung bình 3-4g/trái, đậu nhiều trái và chống chịu khá với bệnh thối trái, sinh
trưởng tốt quanh năm.
– Giống Hiểm lai 207 (Công ty Hai Mũi Tên Đỏ phân phối): Giống cho trái chỉ thiên, dài 2-3 cm, trái rất cay và thơm, năng suất 2-3 kg trái/cây, chống chịu khá bệnh thán thư.
1.2. Giống địa phương:
– Giống Sừng Trâu: Bắt đầu cho thu hoạch 60-80 ngày sau khi cấy. Trái màu đỏ khi
chín, dài 12-15 cm, hơi cong ở đầu, hướng xuống. Năng suất 8-10 tấn/ha, dễ nhiễm
bệnh virus và thán thư trên trái.
– Giống Chỉ Thiên: Bắt đầu cho trái 85-90 ngày sau khi cấy. Trái thẳng, bóng láng, dài 7-10 cm, hướng lên, năng suất tương đương với ớt Sừng nhưng trái cay hơn nên được ưa chuộng hơn.
– Giống Ớt Hiểm: Cây cao, trổ hoa và cho trái chậm hơn 2 giống trên nhưng cho thu
hoạch dài ngày hơn nhờ chống chịu bệnh tốt. Trái nhỏ 3-4 cm nên thu hoạch tốn công, trái cay và kháng bệnh đén trái nên trồng được trong mùa mưa.
Ở Đồng bằng sông Cửu Long, ớt có thể trồng quanh năm, tuy nhiên, trong sản xuất
thường canh tác ớt vào các thời vụ sau:
– Vụ sớm: Gieo tháng 8-9, trồng tháng 9-10, bắt đầu thu hoạch tháng 12-1 dl và kéo
dài đến tháng 4-5 năm sau. Vụ này ớt trồng trên đất bờ líp cao không ngập nước vào mùa mưa. Ớt trồng mùa mưa đỡ công tưới, thu hoạch trong mùa khô dễ bảo quản, chế biến và thời gian thu hoạch dài, tuy nhiên, diện tích canh tác vụ này không nhiều.
– Vụ chính (Đông Xuân): Gieo tháng 10-11 dl, trồng tháng 11-12 dl, bắt đầu thu hoạch tháng 2-3 dương lịch. Trong vụ này cây sinh trưởng tốt, năng suất cao, ít sâu bệnh.
– Vụ Hè Thu: Gieo tháng 4-5 dl trồng tháng 5-6 dl thu hoạch 8-9 dl. Mùa này cần trồng trên đất thoát nước tốt để tránh úng ngập và chọn giống kháng bệnh thán thư.
Lượng hạt giống gieo đủ cấy cho 1.000m2 từ 15-25 gram (150-160 hạt/g). Diện tích
gieo ương cây con là 250 m2. Chọn đất cao ráo hay làm giàn cách mặt đất 0,5-1 m, lót phên tre hay lá chuối rồi đổ lên trên một lớp đất, phân, tro dày 5-10 cm rồi gieo hạt.
Cách này dễ chăm sóc cây con và ngăn ngừa côn trùng hoặc gia súc phá hại. Cũng có thể gieo hạt thẳng vào bầu hay gieo theo hàng trên líp ương. Hạt ớt thường nẩy mầm chậm, 8-10 ngày sau khi gieo mới mọc khỏi đất, cây con cấy vào lúc 30-35 ngày tuổi, có sử dụng màng phủ cây con nên cấy sớm lúc 20 ngày tuổi.
Đất trồng ớt phải được luân canh triệt để với các loại cây trồng khác họ, tránh trồng
trùng lặp với các loại cây như cà chua, thuốc lá và cà tím… Trồng mùa mưa cần lên líp cao vì ớt chịu úng kém. Khoảng cách trồng thay đổi tùy thời gian dự định thu hoạch trái, nếu ăn trái nhanh (4-5 tháng sau khi trồng) nên trồng dày, khoảng cách trồng 50x(30-40)cm, mật độ 3.500-5.000 cây/1.000m2; nếu muốn thu hoạch lâu nên trồng thưa, 70x(50-60) cm, mật độ 2.000-2.500 cây/1.000m2.
5.1. Mục đích:
Hạn chế côn trùng và bệnh hại: Mặt màu bạc của màng phủ phản chiếu ánh sáng
mặt trời nên giảm côn trùng, nhện và nấm bệnh tấn công ở gốc thân và đốm lá
chân.
Ngăn ngừa cỏ dại: Mặt đen của màng phủ ngăn cản ánh sáng mặt trời, làm hạt
cỏ bị chết hay không mọc được trong màng phủ.
Điều hoà độ ẩm và giữ cấu trúc mặt đất: Màng phủ ngăn cản sự bốc hơi nước
trong mùa nắng, hạn chế lượng nước mưa nên rễ cây không bị úng nước, giữ độ
ẩm ổn định và mặt đất tơi xốp, thúc đẩy rễ phát triển, tăng sản lượng.
Giữ phân bón: Giảm rửa trôi của phân bón khi tưới nước hoặc mưa to, ít bay hơi
nên tiết kiệm phân.
Tăng nhiệt độ đất: Giữ ấm mặt đất vào ban đêm (mùa lạnh) hoặc thời điểm mưa
dầm thiếu nắng mặt đất bị lạnh.
Hạn chế độ phèn, mặn: Màng phủ làm giảm sự bốc hơi qua mặt đất nên phèn,
mặn được giữ ở tầng đất sâu, giúp bộ rễ hoạt động tốt hơn.
5.2. Cách sử dụng màng phủ nông nghiệp
– Vật liệu và qui cách: Dùng 2 cuồn màng phủ khổ rộng 0.9-1m trồng ớt hàng đơn, còn hàng đôi 1,5 cuồn màng phủ khổ 1,2-1,4 m, diện tích vải phủ càng rộng thì hiệu quả phòng trừ sâu bệnh càng cao. Chiều dài mỗi cuồn màng phủ là 400m, khi phủ liếp mặt xám bạc hướng lên, màu đen hướng xuống.
– Lên liếp: Lên liếp cao 20-40cm tùy mùa vụ, mặt liếp phải làm bằng phẳng không
được lồi lõm vì rễ khó phát triển và màng phủ mau hư, ở giữa liếp hơi cao hai bên
thấp để tiện việc tưới nước.
– Rãi phân lót: Liều lượng cụ thể hướng dẫn bên dưới, nên bón lót lượng phân nhiều hơn trồng phủ rơm vì màng phủ hạn chế mất phân và không bị cỏ dại canh tranh, có thể giảm bớt 20% lượng phân so với không dùng.
– Xử lý mầm bệnh: Phun thuốc trừ nấm bệnh có hoạt chất Metalaxyl hoặc
Hexaconazole đều trên mặt liếp trước khi đậy màng phủ.
– Đậy màng phủ: Mùa khô nên tưới nước ngay hàng trồng cây trước khi đậy màng
phủ. Khi phủ kéo căng vải bạt, hai bên mép ngoài được cố định bằng cách dùng dây
chì bẻ hình chữ U mỗi cạnh khoảng 10 cm ghim sâu xuống đất (dây chì sử dụng được nhiều năm) hoặc dùng tre chẻ lạc ghim mé liếp.
Lượng phân bón trung bình (ha):
(185-210 N) – (150-180 P2O5) – (160-180 K2O) kg/ha.
– 200 kg Urea
– 500 kg Super Lân
– 200 kg Clorua Kali (KCl)
– 120 kg Calcium Nitrat/Ca(NO3)2
– 500-700 kg (16-16-8)
– 10 tấn chuồng hoai
– 1 tấn vôi bột.
* Bón lót:
500 kg Super Lân + 30 kg KCl + 20 kg Ca(NO3)2, 100-150 kg (16-16-8), 100% phân
chuồng và vôi. Vôi rải đều trên mặt đất trước khi cuốc đất lên liếp, phân chuồng hoai, lân rải trên toàn bộ mặt liếp xới trộn đều. Trong trường hợp trồng phủ rơm, nên bón lót lượng phân nhiều
* Bón phân thúc:
Lần 1 – Giống thấp cây: 20-25 ngày sau khi cấy
– Giống cao cây: 20 ngày sau khi cấy
Lần 2 Đậu trái đều: 55-60 ngày sau khi cấy
Lần 3 Bắt đầu thu trái: 80-85 ngày sau khi cấy
Lần 4 Thúc thu hoạch rộ (đối với ớt sừng dài ngày): 100-110 ngày sau khi cấy.
Bón phân bằng cách vén màng phủ lên rãi phân một bên hàng cây, lần bón sau thì rải phía ngược lại hoặc đục lổ màng phủ giữa 2 gốc cây.
Chú ý:
Ớt thường bị thối đuôi trái do thiếu canxi, do đó mặc dù đất được bón vôi đầy đủ
trước khi trồng hoặc bón đủ Ca(NO3)2 nhưng cũng nên chú ý phun bổ sung phân
Clorua Canxi (CaCl2) định kỳ 7-10 ngày/lần vào lúc trái đang phát triển để ngừa bệnh thối đuôi trái.
Nếu không dùng màng phủ, nên chia nhỏ lượng phân hơn và bón nhiều lần để hạn chế mất phân.
Nhằm góp phần tăng năng suất và phẩm chất trái, nhất là trong mùa mưa có thể
dùng phân bón lá vi lượng như MasterGrow, Risopla II và IV, Miracle… Bayfolan,
Miracle… phun định kỳ 7-10 ngày/lần từ khi cấy đến 10 ngày trước khi thu hoạch.
– Bón theo hàng hoặc hốc rải phân và lấp đất lại– Đối với luống che phủ nilon: Bón phân bằng cách vén màng phủ lên rãi phân một bên hàng cây, lần bón sau thì rải phía ngược lại hoặc đục lỗ màng phủ giữa 2 gốc cây.
Tỉa nhánh: Thông thường các cành nhánh dưới điểm phân cành đều được tỉa bỏ cho
gốc thông thoáng. Các lá dưới cũng tỉa bỏ để ớt phân tán rộng.
Làm giàn:
Giàn giữ cho cây đứng vững, để cành lá và trái không chạm đất, hạn chế thiệt hại do
sâu đục trái và bệnh thối trái làm thiệt hại năng suất, giúp kéo dài thời gian thu hái trái.
Giàn được làm bằng cách cắm trụ cứng xung quanh hàng ớt, dùng dây chì giăng xung
quanh và giăng lưới bên trong hoặc cột dây nilon lúc cây chuẩn bị trổ hoa.
Thu hoạch ớt khi trái bắt đầu chuyển màu. Ngắt nhẹ nhàng cả cuống trái mà không
làm gãy nhánh. Ớt cay cho thu hoạch 35-40 ngày sau khi trổ hoa, ở các lứa rộ thu
hoạch ớt mỗi ngày, bình thường cách 1-2 ngày thu 1 lần, nếu chăm sóc tốt năng
suất trái đạt 20-30 tấn/ha.
Làm giống nên chọn cây tốt, cách ly để tránh lai tạp làm giảm giá trị giống sau này.
Chọn trái ở lứa thu hoạch rộ, để chín hoàn toàn trên cây, hái về để chín thêm vài
ngày rồi mổ lấy hạt, phơi thật khô, để vào chai lọ kín và để nơi khô ráo. Hạt ớt
chứa nhiều chất béo, do đó hạt khô thường hút nước lại và gia tăng ẩm độ, vì vậy,
trữ hạt ở điều kiện nóng ẩm (ẩm độ trữ hơn 70% và nhiệt độ 20oC) hạt mất khả
năng nẩy mầm 50% trong thời gian 3 tháng và mất khả năng nẩy mầm hoàn toàn
trong thời gian 6 tháng. Trữ hạt trong điều kiện khô, kín (ẩm độ 20%, nhiệt độ là
25oC), hạt khô (ẩm độ 5%) có thể giữ độ nẩy mầm 80% trong 5 năm.
Nguồn: Tổng hợp