Phương Pháp Trồng Khổ Qua / Top 17 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 10/2023 # Top Trend | Duhocaustralia.edu.vn

Kĩ Thuật Trồng Khổ Qua

Khổ qua hay còn gọi là mướp đắng – danh pháp hai phần: Momordica charantia là một cây leo mọc ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc họ Bầu bí, có quả ăn được, thuộc loại đắng nhất trong các loại rau quả.

Có thể trồng được quanh năm. Vụ mùa nắng cây ít bệnh và cho năng suất cao hơn vụ mưa.

Đất trồng tốt nhất là đất thịt nhẹ, cát pha, phù sa ven sông, giàu mùn và chất dinh dưỡng, dễ tưới, thoát nước tốt. Vùng trồng phải tuyệt đối không chịu ảnh hưởng của các tác nhân gây ô nhiễm: Nước thải thành phố, nước thải bệnh viện, nước thải công nghiệp, bụi công nghiệp…

Đất được cày ải, sạch cỏ dại, bừa nhỏ vừa phải, lên luống rộng 1 – 1,2m, cao 25 – 30cm, rãnh rộng 25 – 30cm. Trồng 1 hàng trên luống, cây cách cây 45 – 50cm.

Mật độ: 3.000 – 5.000cây/ha

Có thể sử dụng của các công ty giống trên địa bàn thành phố. Đối với khổ qua, có nhiều giống tên gọi khác nhau tuy nhiên chúng thuộc 2 nhóm đó là nhóm trái lớn và nhóm trái nhỏ.

Hạt giống: Có thể gieo trực tiếp trên các liếp đã chuẩn bị xong hoặc gieo vào khay.

Nếu sử dụng khay chúng ta nên dùng khay 72 lỗ là tốt nhất. Giá thể cho vào khay gồm đất sạch 1/3 + phân chuồng hoai mục 1/3 + tro trấu hoặc xơ dừa 1/3. Trộn đều giá thể và trộn thêm 1% phân super lân sau đó dùng các loại thuốc trị bệnh chết cây, lở cổ rể tưới vào giá thể ủ kín 2 – 3 ngày rồi cho vào khay gieo.

Hạt có thể gieo trực tiếp xuống đất, rồi phủ đất có trộn phân chuồng. Không nên gieo quá sâu (khoảng 1,5cm) và chỉ tưới vừa ẩm cho hạt mọc. Mỗi hốc gieo 1-2 hạt.

Khi gieo hạt, đặt đầu nhọn xuống dưới. Phủ lưới sau khi gieo để không làm trôi hạt khi tưới nước. Hạt nên được xử lý bằng nước ấm trước và thuốc bệnh ủ hạt nứt nanh rồi gieo, cách này ít tốn hạt và ít làm hư hạt nhưng sau khi cấy phải tưới đủ ẩm cho cây phát triển nhanh. Cách ủ hạt như sau: Hạt giống ngâm vào nước 2 sôi – 3 lạnh (khoảng 540C) trong 2 – 3 giờ. Sau đó rửa sạch nhớt trên vỏ hạt, ngâm vào các dung dịch thuốc trị bệnh nồng độ 0,1% từ 10 – 15 phút, Vớt hạt ra để ráo cho vào khăn vải ẩm bọc lại ủ hạt, nếu trời lạnh có thể để dưới bóng đèn vàng cho hạt mau mọc. Hằng ngày thăm xem bọc vải có đủ ẩm không, nếu khô thì rưới nước vào nhưng tránh quá ẩm, hạt sẽ khó mọc. Khoảng 2 ngày, hạt sẽ lú rễ mầm thì đem gieo ngay, nếu để rễ dài đem gieo rễ sẽ bị gẫy. Cách này cần chú ý, sau khi gieo cần duy trì nước tưới đầy đủ cho hạt mọc, nên tưới ướt đẫm đất trước khi gieo để không làm hư rễ mầm.

Nếu gieo trong khay thì khi hạt có 1 – 2 lá thật thì đem trồng. Nên gieo phòng 5% lượng cây định trồng để trồng dặm.

* Lượng phân bón cho 1 ha:

Phân chuồng hoai: 30tấn, phân Supe lân/lân vi sinh:

200 – 300kg, Phân NPK các loại: 200 kg, phân Urê: 100kg, phân Kali: 80kg

– Bón lót:

Bón toàn bộ phân chuồng phân lân, 1/4 lượng phân NPK. Bón lúc lên liếp, phân được trộn vùi trong đất sau đó phủ bạt kín lại.

Có thể chia đều lượng phân nhiều lần bón từ 5 – 7 lần tùy theo mùa vụ và chân đất (mùa mưa và chân đất thịt nhẹ: bón nhiều lần). Nên bón vùi phân vào đất để phân không bị bốc hơi, rửa trôi.

Giữa các lần bón thúc và trong thời gian thu hoạch có thể phun thêm phân bón lá. Có thể sử dụng phân bón lá theo nồng độ ghi trên nhãn.

– Trồng dặm: Sau khi trồng 5 – 7 ngày, kiểm tra ruộng và dặm những cây chết vào buổi chiều mát, trồng xong tưới nước ngay để tránh cây bị héo. Khổ qua rất cần nước để sinh trưởng, phát triển và cho năng suất cao nên chú ý cung cấp đủ nước cho cây suốt thời gian sinh trưởng nhưng tránh để ngập úng. Tưới rãnh hoặc tưới có hệ thống tưới nhỏ giọt và có màng phủ nông nghiệp có thể 3 – 5 ngày tưới một lần, tùy mùa vụ.Khi cây bắt đầu xuất hiện tua cuốn thì làm giàn, có thể tranh thủ làm giàn trước khi cây xuất hiện tua cuốn. Làm giàn hình chữ U ngược cao tối thiểu 2m, vật liệu làm giàn phải chắc để không đỗ ngã khi gió bão, sẽ làm giảm năng suất.

– Sửa dây: Khi dây leo lên giàn, cần sửa dây phân bố đều, tỉa bỏ những nhánh gốc, nhánh nhỏ, nhánh sâu bệnh cho ruộng được thông thoáng góp phần làm giảm sâu bệnh và tăng đậu trái.

Kết hợp sửa dây với tỉa nhánh gốc và nhánh nhỏ, lá già, sâu bệnh giúp cây tập trung dinh dưỡng nuôi trái.

– Làm cỏ kết hợp với các lần bón phân.

– Sâu đất, tuyến trùng: Xử lý đất trước khi trồng bằng

Regent 0.3G lên hốc gieo, hoặc sau khi cấy rãi quanh gốc.

– Sâu xanh: Tập kỳ, Vertimec,…phun khi sâu tuổi còn nhỏ, kết hợp diệt sâu và trứng bằng tay.

– Nhóm chích hút: Bọ trĩ, rầy xanh, nhện: Actara, Confidor, Oshin,…theo nồng độ khuyến cáo. Tránh để ruộng quá khô hạn.

– Sâu vẽ bùa: Ofunack, Trigard… vào lúc sáng sớm

– Bệnh sương mai: Mancozeb, Carbendazim,…phun sớm khi bệnh vừa mới xuất hiện. Sử dụng thuốc theo nguyên tắc “4 đúng” và có thời gian cách ly an toàn.

Khoảng 45 – 50 ngày sau khi gieo là có thể thu hoạch. Mỗi ngày thu 1 lần, độ lớn trái tùy thị trường và giống. Nếu chăm sóc tốt, đất trồng tốt, làm giàn cao và đầu tư đúng mức thì thời gian thu hoạch sẽ kéo dài.

Nguồn: sưu tầm

Khổ Qua Rừng Và Cách Trồng Khổ Qua Rừng Tự Nhiên

LOẠI CÂY TRỒNG

Khổ qua hay còn gọi là mướp đắng, là loại dây leo có tua cuốn thuộc họ bầu bí dưa. Khổ qua sinh trưởng và phát triển tốt ở vùng nhiệt đới. Dây và lá có lông, bông vàng, trái u sần sùi, vị đắng. Khi trái chín xung quanh hạt có màng đỏ bao quanh như trái gấc. Khổ qua là loại trái đắng nhất trong các loại trái họ bầu bí dưa.

Bên cạnh dùng làm thực phẩm, khổ qua còn là một loại dược liệu dùng trong đông y. Hầu hết tất cả các bộ phận của cây đều có thể dùng làm dược liệu.

GIỐNG

Khổ qua rừng giống Nhật.

MÙA VỤ

Trồng và thu hoạch quanh năm. Trái phát triển tốt vào mùa mưa.

QUY TRÌNH CANH TÁC

Làm đất

Đất đào hố bán kính 10cm, sâu 20 – 30cm. Bón lót hỗ hợp phân bò khô, phân dừa mục và tro.

Chọn giống và gieo trồng

Hạt giống được chọn từ trái đã già chín, đẹp không nhiễm sâu bệnh. Ươm hạt từ 3 – 5 ngày cho hạt nảy mầm thành cây con. Gieo trồng bằng cách đặt cây con vào hố đất đã chuẩn bị từ trước.

Chăm sóc

Giai đoạn cây con: bón lót phân vi sinh giúp hạ phèn và làm tơi đất. Khi cây được 7 lá tiến hành bấm đọt. Khi cây được 10 ngày tuổi bón thêm phân bò khô. Sau khi bấm đọt bón thêm phân bón hữu cơ cho cây đâm chồi.

Giai đoạn lên giàn: khi cây được 15 ngày tuổi tiến hành làm giàn để cây bám leo giàn. Mỗi gốc từ 2 – 3 thanh trụ. Khi cây được 20 ngày hoàn chỉnh giàn để chồi hữu hiệu bám vào.

Giai đoạn cây trưởng thành: khi cây cho trái non tiến hành treo hương (long não) xua đuổi ruồi vàng đục trái và sâu ăn lá và trái non. Khi cây 30 ngày tuổi tiến hành bón bổ sung phân bò hoai để giúp cây nuôi trái và chồi non. Định kỳ 15 – 20 ngày bón bổ sung phân bò và phân vi sinh.

Làm cỏ bằng máy phát cỏ. Tưới đủ nước trong mùa khô.

Sâu, bệnh hại

Ruồi vàng đục trái. Sâu ăn lá và trái non.

Thu hoạch và bảo quản

Cây bắt đầu cho thu hoạch sau 35 ngày tuổi. Thu hoạch khi trái đã vừa già. Dùng kéo cắt ngang cuống trái. Bảo quản nơi khô ráo, có đệm lót chống dập gai.

MÔ TẢ SẢN PHẨM

Khổ qua rừng có chu kỳ sống hằng năm khoảng từ 5 – 6 tháng. Thân cây có cạnh, dạng dây leo bằng tua cuốn và có thể bò dài tới khoảng 2 – 3m.

Phần lá cây là lá so le, dài khoảng 5 – 10cm, rộng 4 – 8cm. Phiến lá hình trứng và chia làm 5 – 7 thùy, mép kía răng. Phần gân lá có lông ngắn, mặt dưới lá thường có màu nhạt hơn mặt trên.

Bông đực và bông cái của cây sẽ mọc tách riêng ở phần nách lá. Cánh bông khổ qua rừng có màu vàng. Phần trái có hình trứng thuôn với chiều dài khoảng 5 – 8cm, mặt bên ngoài có nhiều u lồi nhọn. Trái non sẽ có màu xanh và khi chín thì chuyển dần sang màu vàng hồng.

Làm thực phẩm: hầm thịt, nấu canh chả cá, xào, ăn tươi,v.v…

Làm dược liệu: sấy khô làm trà, hãm trà tươi, lá trị rôm sẩy, v.v…

Kỹ Thuật Trồng Khổ Qua

 10/03/2023

CÔNG TY TNHH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VIỆT Á

Địa chỉ: 227 Ngô Xuân Quảng- TT Trâu Qùy- Gia Lâm- Hà Nội

Tel : 043 8760284- 0988286997 – 0904565955

Email: Vietaseed@gmail.com- Website: Vietaseeds.com.vn               

KHỔ QUA  Tên khoa học: Momordica charantia L.  Họ bầu bí: Cucurbitaceae

1. GIỚI THIỆU

Khổ qua có nguồn gốc vùng Châu Á nhiệt đới, có thể là Đông Ấn và Nam Trung Quốc, được sử dụng như là loại rau ăn quả giàu chất sắt và vitamin C và canh tác được quanh năm ở vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới.

2. ĐẶC TÍNH SINH HỌC

Cây leo quấn hằng niên, thân mọc dài đến 5 m. Lá đơn, mọc cách, lá xẽ 3 – 9 thùy. Hoa đơn phái cùng cây, hoa mọc đơn độc ở nách lá, màu vàng, hoa đực có có cuống ngắn. Hoa cái có cuống dài, bầu noãn hạ, phát triển rất nhanh trước và sau khi thụ phấn. Hoa thụ phấn nhờ côn trùng, chủ yếu là ong. Trái ăn tươi có thể thu hoạch 2 tuần sau khi thụ phấn. Trái chứa từ 20 – 30 hạt.

Khổ qua thích nghi rộng với điều kiện thời tiết nên trồng được quanh năm trong vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Cây phát triển tốt trong điều kiện nhiệt độ từ 20 – 35oC, vũ lượng 1500 – 2500 mm và cao độ đến 1000 m. Cây chịu đựng được nhiều điều kiện đất khác nhau nhưng phát triển tốt nhất trên đất thoát thủy tốt, giàu chất hữu cơ.

3. GIỐNG

3.1 Giống lai F1:

- Giống :Giống lai F1 có sức sinh trưởng mạnh, trái dài, suông đẹp, đầu đuôi trái hơi nhọn, gai nở to xanh bóng, thịt dày, độ đắng trung bình. Chiều dài trái 20-22 cm và trọng lượng 200-250G, 120-140 g, năng suất cao, trồng quanh năm.

- Giống khổ qua lai F1 số 242: Do công ty Hai Mũi tên Đỏ phân phối, cây sinh trưởng tốt ở mọi thời vụ, kháng bệnh đốm lá (Cercospora). Thời gian bắt đầu thu hoạch trái 38-40 ngày sau khi gieo và kéo dài 1,5-2 tháng. Năng suất 3-4,5 kg/cây. Chiều dài trái 19-22cm, màu xanh sáng, rất bóng, gai lớn thẳng.

3.2 Giống địa phương:

- Giống TH-12: do CTGCTMN chọn lọc từ giống khổ qua mỡ địa phương. Giống cho trái sớm, bắt đầu thu trái 40 NSKG, trái dài 18 -20 cm, thon hai đầu, không vai, màu xanh trung bình, gai dọc liền và nổi rỏ, thịt trái dầy, ít đắng, thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Năng suất trung bình từ 20 – 25 tấn/ha.

- Giống trái nhỏ: do CTGCTTP chọn lọc từ giống địa phương. Giống cho trái rất sớm, bắt đầu thu hoạch 35 NSKG, trái dài 15 -16 cm, thon hai đầu, không vai, màu xanh trung bình, gai dọc liền và nổi rỏ, thịt dầy, ít đắng, thích hợp thị hiếu người tiêu dùng thành phố. Năng suất 15 – 20 tấn.

- Giống khổ qua Xiêm: trái to, dài 30 – 40 cm, không vai, vỏ xanh trung bình, gai to, ít đắng, năng suất khá.

- Giống khổ qua Rô: trái nhỏ 12 – 15 cm, hai đầu nhọn, không vai, vỏ xanh trung bình, gai nhỏ, nhọn, vị đắng nhiều, sai trái nhưng năng suất thấp hơn khổ qua Xiêm. Loại này thích hợp chế biến sấy khô làm trà.

4. KỸ THUẬT CANH TÁC

4.1.Thời vụ

Trồng được quanh năm, tốt nhất là vụ Đông Xuân. Vụ Hè Thu (mưa nhiều) thường bị ruồi đục trái gây hại nặng.

4.2. Gieo trồng

– Đối với giống lai F1 lượng hạt cần gieo là 140-170 g/1.000m2 (mật độ 500-700cây/1.000m2) vì cây phát triển mạnh, bò dài, trồng thưa hơn giống địa phương, cần phải làm giàn mới phát huy hết tiềm năng của giống. Thường trồng hàng đôi khoảng cách 4-5 m hoặc hàng chiếc 2-2,5m, cây cách cây 70-80 cm.

– Đối với giống địa phương cần 300 – 500 kg/1.000m2. Trồng hàng cách hàng 1,2m, cây cách cây trên hàng 30-35 cm, mật độ trung bình 2.400-2.700 cây/1.000m2. Mùa nắng có thể trồng bò đất, hàng đôi cách nhau 3-3,5 m, mật độ 1.600-1.900 cây/1.000m2 .

Vỏ hột khổ qua khá dầy nên ngâm hạt 1-2 giờ trong nước ấm 2 sôi – 2 lạnh, vớt ra ủ cho nhú mầm rồi đem gieo sẽ lên tốt hơn. Khi hột nhú mầm đem gieo thẳng ra đồng hoặc gieo trong bầu đất. Bầu đất làm bằng túi nylon có cắt góc hoặc bầu lá chuối, lá dừa. Phun thuốc trừ bệnh như Copper B, Rovral, Topsin M trên bầu đất trước khi gieo hột và rãi Basudin 10H xung quanh bầu và phía trên bầu để tránh côn trùng gây hại. Khi cây được 10 -12 ngày thì trồng ra đồng.

Đất thích hợp trồng khổ qua là dất thịt nhẹ hoặc cát pha, thoát nước tốt. Đất phải cày bừa kỹ, lên luống cao 20 – 25 cm.

4.3. Sử dụng màng phủ nông nghiệp

Màng phủ nông nghiệp còn gọi là “màng bạt” hay “thảm”, là một loại nhựa dẽo, mỏng, chuyên dùng để phủ liếp trồng rau, dầy 0,03-0,035 mm, mặt trên có màu xám bạc, mặt dưới màu đen, sử dụng bình quân 2 vụ khổ qua.

Mục đích:

a. Hạn chế côn trùng gây hại: Mặt màu bạc của màng phủ phản chiếu ánh sáng mặt trời nên giảm bù lạch, rầy mềm, dòi đục lòn lá và giảm thun đọt khổ qua.

b. Hạn chế bệnh hại: Bề mặt màng phủ ráo nhanh sau khi mưa; bộ lá cây luôn khô, thoáng, giảm bệnh do nấm tấn công ở gốc thân và đốm phấn trên lá chân.

c. Ngăn ngừa cỏ dại: Mặt đen của màng phủ ngăn cản ánh sáng mặt trời, làm hạt cỏ bị chết trong màng phủ.

d. Điều hoà độ ẩm và giữ cấu trúc mặt đất: Màng phủ ngăn cản sự bốc hơi nước trong mùa nắng, hạn chế lượng nước mưa nên rễ cây không bị úng nước, giữ độ ẩm ổn định và mặt đất tơi xốp, thúc đẩy rễ phát triển, tăng sản lượng.

e. Giữ phân bón: Giảm rửa trôi của phân bón khi tưới nước hoặc mưa to, ít bay hơi nên tiết kiệm phân.

f. Tăng nhiệt độ đất: Giữ ấm mặt đất vào ban đêm (mùa lạnh) hoặc thời điểm mưa dầm thiếu nắng mặt đất bị lạnh.

g. Hạn chế độ phèn, mặn: Màng phủ làm giảm sự bốc hơi qua mặt đất nên phèn, mặn được giữ ở tầng đất sâu, giúp bộ rễ hoạt động tốt hơn.

Trồng khổ qua sử dụng màng phủ nông nghiệp có thể khắc phục được một phần yếu tố bất lợi của môi trường, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với trồng tủ rơm.

CÁCH SỬ DỤNG MÀNG PHỦ NÔNG NGHIỆP:

a. Chuẩn bị trước khi trồng:

- Vật liệu và qui cách: Dùng màng phủ khổ rộng 1-1,2 m (trồng hàng đơn) hoặc 1,4-1,6 m (trồng hàng đôi. Chiều dài mỗi cuồn màng phủ là 400 m, trung bình trồng 1.000m2 khổ qua cần khoảng 1 cuồn nếu trồng hàng đôi như dưa hấu, còn tốn 1,5 cuồn nếu khỏang cách hàng gần hơn. Khi phủ liếp mặt xám bạc hướng lên, màu đen hướng xuống.

- Lên liếp: Lên liếp cao 20-40 cm tùy mùa vụ, đất ruộng trong mùa mưa cần lên liếp cao, mặt liếp phải làm bằng phẳng không được lồi lõm vì rễ khó phát triển và màng phủ mau hư, ở giữa liếp hơi cao hai bên thấp để tiện việc tưới nước.

- Rãi phân lót: cách bón và liều lượng phân ở phần sau.

- Xử lý mầm bệnh: Phun thuốc trừ nấm bệnh như Oxyt đồng hoặc Copper B (20 g/10 lít) hoặc Validacin (20 cc/10lít) đều trên mặt liếp trước khi đậy màng phủ.

- Đậy màng phủ: Mùa khô nên tưới nước ngay hàng trồng cây trước khi đậy màng phủ. Khi phủ kéo căng vải bạt, hai bên mép ngoài được cố định bằng cách dùng dây ni long căng ngang mặt líp, mỗi đầu dây cột một que cây 15-20cm, hoặc dùng dây chì bẻ hình chữ U mỗi cạnh khoảng 10 cm ghim sâu xuống đất (dây chì sử dụng được nhiều năm) hoặc dùng tre chẻ lạc ghim mé liếp nếu như đất mịn và dẽo như ở huyện Chợ Mới tỉnh An Giang, cũng có thể lâp đất tấn xung quanh mé liếp để tránh gió tốc nhưng chỉ thích hợp trong mùa nắng.

Khi phủ xong không nên dùng rơm hay cỏ đậy trên màng phủ vì làm mất tác dụng phản chiếu ánh sáng, không nên đi đạp lên vải bạt vì mau rách.

- Đục lổ màng phủ: Dùng lon sữa bò đường kính khoảng 10 cm, có đục lổ thông gió xung quanh chân lon, làm cán để cầm, cột dây chì vòng miệng lon chừa râu dài 50-70 cm làm cự ly giữa các cây, đốt than nóng cho vào trong lon.

b. Trồng cây:

Rãi một ít đất mịn hoặc rơm hoặc trấu mục vào trong lổ (không nên dùng nhiều tro trấu, nhất là trong mùa nắng vì sức nóng của màng phủ và của tro làm cây con bị hóc phát triển yếu), tưới nhiều nước vào lổ rồi gieo hột hoặc đặt cây con. Xử lý côn trùng bằng thuốc hột như Basudin 10H hay Regent rãi xung quanh gốc sau khi gieo hột hoặc sau khi cấy cây con (2 kg/1.000 m2).

4.4. Chăm sóc

4.4.1. Bón phân: lượng phân sử dụng cho 1.000 m2: Hữu cơ 1 tấn + 95 kg hỗn hợp 16-16-8 và 5 kg Clorua kali + 5 kg Calcium nitrat + 50 kg vôi bột (tương đương công thức 160 N-150 P2O5-100 K2O- 10 Ca kg/ha). Trong mùa mưa nên bón thêm 5-8 kg Calcium nitrat giúp trái cứng ít bị hư. Cách bón được thực hiện như sau:

* Bón lót: 25 kg 16-16-8 + 1 tấn hữu cơ + 50 kg vôi. Vôi rải đều trên mặt đất trước khi cuốc đất lên liếp, phân chuồng hoai và phân hóa học rãi trộn đều trên mặt liếp. Lượng phân bón lót nhiều hơn trồng phủ rơm vì phân nằm trong màng phủ ít bị bốc hơi do ánh nắng, hay rửa trôi do mưa.

* Bón phân thúc:

Lần 1: 15-20 ngày sau khi trồng

Liều lượng 20 kg 16-16-8 + 1 kg Calcium nitrat.

Bón phân bằng cách vén màng phủ lên rãi phân một bên hàng khổ qua hoặc đục lổ màng phủ giữa 2 gốc.

Lần 2: 35-40 ngày sau khi trồng, khi đã đậu trái đều, chuẩn bị thu trái lưa đầu.

Lượng bón 20 kg 16-16-8 + 1 kg Clorua kali + (1-2) kg Calcium nitrat.

Vén màng phủ lên rãi phân phía còn lại hoặc bỏ phân vào lổ giữa 2 gốc.

Lần 3: Khi cây 55-60 ngày sau khi trồng, bắt đầu thu trái rộ.

Lượng bón 20 kg 16-16-8 + 2 kg Clorua kali + (2-3) kg Calcium nitrat.

Vén màng phủ lên rãi phân hoặc bỏ phân vào lổ giữa 2 gốc.

Lần 4: Khi cây 70-80 ngày sau khi trồng

Lượng bón: 10 kg 16-16-8 , 1 kg Clorua kali + (1-2) kg Calcium nitrat.

Vén màng phủ lên rãi phân hoặc bỏ phân vào lổ giữa 2 gốc.

Sử dụng thêm các loại phân bón qua lá để tăng cường sức sinh trưởng của cây trong lúc ra hoa kết trái.

4.4.3. Tưới nước: Cần tưới đủ nước cho cây phát triển nhất là vào mùa khô, thiếu nước giai đoạn ra hoa sẽ làm cho hoa trái bị rụng và nhiều trái đèo. Trong mùa nắng, trồng có màng phủ cần chú ý cung cấp đủ nước bằng cách bơm nước vào rãnh hoặc tưới vào lổ giữa 2 gốc. Vào mùa mưa tránh ruộng bị ngập úng làm hư hại rễ.

4.4.4. Bấm ngọn, tỉa dây: Tùy theo đặc tính giống trồng mà có hình thức tỉa dây, bấm ngọn cho thích hợp. Các giống ra nhánh sớm ngay từ nách lá đầu tiên nên tỉa bỏ 2-3 nhánh đầu để tạo sự thông thoáng ở gốc. Nếu giống ra nhánh từ nách lá thứ 4 trở lên thì không cần tỉa nhánh. Một số nơi có tập quán ngắt ngọn khi cây có 5-7 lá, sau đó chừa 3 nhánh mọc mạnh và để trái trên các dây nhánh đó. Khổ hoa cho trái trên dây chánh cũng như dây nhánh nên cây có nhiều dây sẽ cho nhiều trái.

Do cây ra hoa kết trái liên tục, vì vậy cần tỉa bỏ sớm các trái dị dạng, teo đèo để cây tập trung dinh dưỡng nuôi trái thương phẩm tốt.

4.4.5. Phòng trừ sâu bệnh

* SÂU HẠI

- Ruồi đục trái (Bactrocera cucurbitae): Ruồi có hình dạng và kích thước rất giống ruồi đục trái cây, nhưng chỉ gây hại trên các cây họ Bầu Bí. Ấu trùng là dòi có màu trắng ngà, đục thành đường hầm ngoằn ngèo bên trong trái làm trái thối vàng, rụng sớm.

Nên thu gom tiêu diệt trái rụng xuống đất, cày phơi đất sau vụ hoặc cho nước ngập ruộng vài ngày để diệt nhộng. Phun ngừa ruồi bằng các thuốc Sherpa, Karate, Cyper-alpha, Cyperan. Nếu ruồi ở mật độ cao có thể dùng dấm pha với một ít đường và trộn với thuốc trừ sâu, xong đặt rải rác, 6 -10 m một bẩy. Cũng có thể dùng giấy báo, bao nilong để bao trái sau khi trái đậu 2 ngày.

- Rầy lửa, bọ trỉ, bù lạch (Thrips sp.)

– Bù lạch có tính kháng thuốc rất cao, nên định kỳ 7-10 ngày/lần phun dầu khoáng DC-Tron plus (Caltex) sẽ giảm đáng kể sự tấn công của bù lạch; khi thấy mật số vài ba con trên một đọt non cần phun một trong các loại như Confidor 100SL, Admire 50EC, Danitol 10EC, Vertimec…0.5-1%o, cần thay đổi thuốc thường xuyên

- Rệp dưa, rầy nhớt (Aphis spp.)

Còn được gọi là rầy mật, cả ấu trùng lẫn thành trùng đều rất nhỏ, dài độ 1-2mm, có màu vàng, sống thành đám đông ở mặt dưới lá non từ khi cây có 2 lá mầm đến khi thu hoạch, chích hút nhựa làm cho ngọn dây dưa chùn đọt và lá bị vàng. Rầy truyền các loại bệnh siêu vi khuẩn như khảm vàng. Chúng có rất nhiều thiên địch như bọ rùa, dòi, kiến, nhện nấm.. nên chỉ phun thuốc khi nào mật số quá cao ảnh hưởng đến năng suất. Phun các loại thuốc phổ biến như trừ bọ rầy dưa hoặc Trebon.

- Sâu ăn lá (Diaphania indica)

– Bướm nhỏ, màu nâu, khi đậu có hình tam giác màu trắng ở giữa cánh, hoạt động vào ban đêm và đẻ trứng rời rạc trên các đọt non. Trứng rất nhỏ, màu trắng, nở trong vòng 4-5 ngày. Sâu nhỏ, dài độ 8-10mm, màu xanh lục có sọc trắng đặc sắc ở giữa lưng, thường nhả tơ cuốn lá non lại và ở bên trong ăn lá hoặc cạp vỏ trái non. Sâu đủ lớn, độ 2 tuần làm nhộng trong lá khô.

– Phun thuốc ngừa bằng các loại thuốc phổ biến trên đọt non và trái non khi có sâu xuất hiện rộ như thuốc trừ rệp dưa, bọ rầy dưa.

* BỆNH HẠI

- Bệnh đốm phấn, sương mai do nấm Pseudoperonospora cubensis. Lúc đầu, ở mặt trên lá vết bệnh nhỏ màu xanh nhạt, sau đó chuyển sang màu vàng nâu và giới hạn trong các gân phụ của lá, nên đốm bệnh có hình góc cạnh. Bên dưới ngay vết bệnh có lớp tơ nấm lúc đầu màu trắng sau đó chuyển sang màu vàng tím. Nhiều vết bệnh liên kết lại làm lá vàng, cây phát triển chậm, trái nhỏ kém chất lượng. Bệnh phát triển mạnh trong điều kiện ẩm độ cao.

Phun Curzat M-8, Mancozeb 80 WP, Copper-zinc, Zin 80WP, Benlate-C 50 WP hoặc Ridomil 25WP 1-2 % kết hợp tỉa bỏ lá già.

- Bệnh thán thư do nấm Colletotrichum lagenarium: Bệnh gây hại trên hoa, cuống trái, trái non và cả trái chín. Vết bệnh trên trái có màu nâu tròn, lõm, khi bệnh nặng các vết này liên kết thành mảng to gây thối trái và làm trái rụng sớm.

– Phun Manzate 200, Mancozeb 80WP, Antracol 70W, Curzate M8, Copper-B, Topsin-M, Benlat-C 50WP nồng độ 2-3%o.

5. THU HOẠCH

Khổ qua cho thu hoạch nhiều lần. Lần đầu cho thu hoạch 40 – 45 ngày sau khi gieo, thu khoảng 20 – 30 kg/1.000m2. Trung bình cách 3 – 4 ngày thu một lần, thu tổng cộng 10 -15 lứa trong 40 – 50 ngày tùy theo mùa vụ và mức độ thâm canh của người trồng. Năng suất cao nhất ở các lứa thứ 4 – 6, khoảng 200 – 300 kg/1.000m2. Năng suất tổng cộng cả vụ 1,5 – 3/1.000m2 tấn trong 3 – 3,5 tháng trồng.

6. ĐỂ GIỐNG

Không nên sử dụng trái thương phẩm của giống lai F1 để làm giống vụ sau cho trái không đồng đều về hình dạng, màu sắc và năng suất thấp.

Giống địa phương muốn để giống phải chú ý trồng cách ly với các giống khác ở xung quanh để giống đảm bảo độ thuần. Chọn trái tốt trên cây sinh trưởng tốt và không sâu bệnh để làm giống.

Khi trái chín vàng đều, thu vào để nơi mát. Nên phân biệt trái chín hoàn toàn với trái bị vết sâu bệnh, trong quá trình thu phải bỏ hẳn trái bị sâu bệnh để không ảnh hưởng đến chất lượng giống sau này. Trái giống chín mềm bốc ra cào lấy hạt rồi để ủ 1 đêm sau đó rửa sạch chất nhờn bằng nước. Hạt giống sau khi rửa sạch phải phơi khô nhanh, vì thời gian phơi hạt lâu vỏ hạt biến màu khi khô và giảm chất lượng

Hạt Giống Khổ Qua Lai F1 Rado Trồng Khổ Qua

Hạt giống Khổ qua lai F1 RADO trồng khổ qua

10,000₫

(giá của sản phẩm chưa bao gồm chi phí vận chuyển trên toàn quốc)

Cây sinh trưởng phát triển mạnh. Trồng quanh năm.

Trái bóng, gai nở đẹp, dạng trái tròn, sai trái.

Nếu bạn muốn có trái dài 17-18 cm màu xanh nhạt thì chúng tôi có Khổ qua trái dài lai F1 RADO 316 cho bạn.

Mô tả

Vấn đề sức khỏe và an toàn vệ sinh thực phẩm luôn là vấn đề lớn trong xã hội. Để bảo vệ sức khỏe cho cả gia đình, bạn nên trồng rau sạch trong nhà mình. Để việc trồng khổ qua đem lại kết quả thì bạn cần hạt giống đảm bảo chất lượng. Vườn Sài Gòn sẽ cung cấp hạt giống Khổ qua lai F1 RADO cho bạn.

Thu hoạch: 36-40 ngày sau khi gieo.

Mật độ: cây x cây 0.4 – 0.5m, hàng – hàng 1.2 – 1.5m.

Hướng dẫn gieo hạt giống Khổ qua lai F1

Ươm hạt giống Khổ qua lai F1 trong khay hoặc gieo trực tiếp. Tránh phủ đất lên hạt. Giữ ẩm hạt.

Cây cho hoa sau 12 tuần tính từ lúc gieo, thích hợp nhất là vào mùa hè

Sau 10 – 15 ngày trồng thì kiểm tra tỷ lệ nảy mầm. Trồng dặm những cây đã chết hoặc hạt không nảy mầm bằng những cây con có 5 – 6 lá. Sau đó, làm sạch cỏ và xới nhẹ cho đất tơi xốp. Chú ý không chạm mạnh, tránh bị động rễ cây.

Sau 30 – 35 ngày trồng, làm sạch cỏ. Và bón phân urê hoặc phân chuồng loãng.

Sau mỗi lứa thu hoạch lại tiến hành làm sạch cỏ dại. Bón thúc theo tỷ lệ được liệt kê như sau. Phân hữu cơ hoại mục: 10 – 15 tấn/ha/năm. Sulphát kali 100kg/ha/năm. Phân đạm urê : 400kg/ha/năm. Chia đều làm 7 – 8 lứa sau thu hoạch.

(*) Lưu ý: Đối với đất có độ pH <5 nên rải đều 1000kg/ha vôi trước khi cày bừa giúp cỏ sinh trưởng và phát triển tốt hơn.

Sản phẩm tương tự

Phương Pháp Sử Dụng Phân Bón Qua Lá

Phân bón lá bổ sung thêm thức ăn đặc biệt là vi lượng để kích thích cho cây trồng ra lá, ra hoa nhanh hơn. Phân bón lót có tác dụng với rau, cây ăn quả, hoa hơn so với ở trên cây lan, loài sống phụ sinh

Cây hoàn toàn không thể phát triển bình thường nếu không có các nguyên tố vi lượng như Bo(B), man gan(Mn), kẽm (Zn), đồng (Cu), Molipđen(Mo), một số cây cần cả nhôm (Al), silic (Si). Người ta đã chứng minh những nguyên tố này là tuyệt đối cần thiết cho cây. Các nguyên tố đó được xem như là các chất kích thích và các loại phân bón chứa chúng được gọi là các loại phân xúc tác hoặc phân kích thích, chúng đã thúc đẩy sự phát triển của thực vật. Sự thiếu từng nguyên tố vi lượng và đa lượng riêng biệt trong đất gây ra các chứng bệnh cho thực vật, động vật và người.

Phương thức sử dụng phân bón lá

– Sử dụng phân bón lá phải ở những nồng độ thích hợp (theo hướng dẫn trên bao bì). Nồng độ bón phân qua lá không được cao. Nếu cao cây sẽ bị bội thực (gây độc) và chết, nếu bón nồng độ thấp thì hiệu lực không rõ. – Nên phun lên bề mặt lá có nhiều khí khổng nhất. Cây hấp thụ phân bón lá qua khí khổng: lỗ khí khổng phân bố cả mặt trên và mặt dưới lá. ·

Ở lúa: mặt trên lá mật độ khí khổng cao hơn mặt dưới lá;· Ở ngô, cà chua, khoai tây mặt trên lá mật độ khí khổng thấp hơn mặt dưới lá;· Những cây thân gỗ số lượng lỗ khí khổng lớn, từ 300-400, đa số chúng đều được bố trí ở mặt dưới lá.

Điều kiện ngoại cảnh ảnh hưởng đến sự đóng mở khí khổng·

Trời râm khí khổng mở, nắng gắt khí khổng đóng;· Đất quá khô lỗ khí khổng đóng lại;· Gió làm khí khổng đóng lại; · Nhiệt độ: 10 oC-30 oC khí khổng mở, Nhiệt độ lớn hơn 30 oC lỗ khí khổng đóng lại.

Thời điểm phun phân bón lá· Phun phân bón lá vào lúc khí khổng đang mở; ·

Phun khi nhiệt độ dưới 30oC, trời không nắng, không mưa, không có gió khô; phân bón lá chỉ phát huy tác dụng khi cung cấp đủ nước, phân qua rễ;·

Thời gian phun: 9-10h sáng và 2-3h chiều về mùa đông.

7-8h sáng hoặc 5-6h chiều về mùa hè. ·

Phân bón lá định hướng cho từng loại như các loại cây lấy hoa, lấy củ, lấy hạt…phun theo hướng dẫn ghi trên bao bì;·

Những chế phẩm tăng năng suất cây trồng hoàn toàn không độc với người và cây trồng vì những chất đưa vào cây là những chất đã có sẳn trong cây trồng ở nồng độ thấp, chưa đáp ứng cho cây phát triển tốt được; không nên dùng quá liều chỉ định gây độc (bội thực) cho cây, ảnh hưởng tới sinh trưởng, phát triển.

Cần chú ý:· Không phun khi trời mưa, nắng to do bay hơi, tỷ lệ lỗ khí khổng đóng cao. Không phun sau mưa do cây đã no nước.· Nếu bơm máy tránh ga mạnh gây ảnh hưởng cơ học lên cây.· Có thể pha chế phẩm với thuốc trừ sâu bệnh để tiết kiệm công phun khi phát hiện cây có sâu bệnh (chỉ pha lẫn vào nhau ở nồng độ loãng).· Trường hợp cây phát triển kém có thể phun chế phẩm nhiều lần, mỗi lần cách nhau 10-15 ngày.

Những ruộng chỉ định không được dùng chế phẩm· Ruộng bị sâu bệnh không có khả năng cứu chữa.. Ruộng thiếu nước bị hạn nặng./.

Tác giả: Duy Huynh – Phòng Trồng trọt, Sở NN Thanh Hóa Nguồn bài viết: chúng tôi