Phương Pháp Trồng Cây Thuốc Phiện / Top 14 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Duhocaustralia.edu.vn

Cây Thuốc Phiện (Hoa Anh Túc)

Cây thuốc phiện còn có tên: A phiến, a phù dung, cổ tử túc, anh túc.

Đặc điểm thực vật và phân bố

Cây thảo, sống hàng năm, cao 0,7- 1,5 m, ít phân nhánh, thân mọc thẳng. Lá mọc cách, lá phía dưới có cuống ngắn, lá phía trên không cuống, mọc ôm vào thân, mép có răng cưa. Lá hình trứng dài 6-50 cm, rộng 3,5- 30 cm, đầu trên nhọn, ở phía dưới cuống tròn hoặc hơi hình tim. Gân lá nổi rõ ở mặt dưới.

Hoa to đơn độc mọc ở đầu thân hoặc đầu cành. Có cuống dài 12- 14cm, đài hoa gồm 2 lá đài màu xanh sớm rụng khi hoa nở, lá đài dài 1,5 – 2 cm. Tràng 4cánh, dài 5-7 cm màu trắng hay tím hoặc hồng. Nhị nhiều, bao quanh một bầu có một ngăn gồm15- 20 lá noãn dính liền nhau thành hình cầu.

Quả là một nang hình cầu hoặc hình trứng dài 4-7 cm, đường kính 3-6 cm, ở đỉnh có núm, quả có cuống phình ra ở chỗ nối. Quả chín có màu vàng xám. Hạt nhỏ và nhiều (25000-30000 hạt/quả), hơi giống hình thận, dài 0,5 – 1 mm, trên mặt có vân hình mạng, màu xám hay vàng nhạt hoặc xám đen.

Toàn thân cây chỗ nào bấm cũng có nhựa mủ màu trắng, để lâu chuyển thành nâu đen.

Thuốc phiện là cây được trồng từ lâu đời, nguồn gốc có lẽ từ các nước vùng Địa Trung Hải. Căn cứ vào màu sắc của hoa, hạt, hình dáng và kích thước của quả, theo lối cổ điển người ta phân biệt ra các thứ sau:

– Thứ nhẵn ( Papaver somniferum var. glabrum Bois): Hoa tím, quả hình cầu rộng, hạt đen tím, trồng ở Trung Á.

– Thứ trắng( Papaver somniferum var. album DC.) Hoa trắng, quả hình trứng, hạt trắng vàng nhạt. Trồng tại Ấn độ và Iran.

– Thứ đen( Papaver somniferum var. nigrum DC.) Hoa tím, quả hình cầu ở phía dưới, mở lỗ trên mép đầu nhụy, hạt màu xám, Trồng ở châu Âu.

– Thứ lông cứng( Papaver somniferum var. setigerum DC.) Hoa tím, cuống hoa và lá phủ đầy lông cứng. Mọc bán hoang dại ở miền nam châu Âu.

Trong các thứ này, thứ trắng thường được trồng để lấy nhựa, thứ đen để lấy dầu. Trên thực tế người ta vẫn chích lấy nhựa từ quả chưa chín hoặc lấy dầu từ hạt quả chín già của 2 thứ này. Ngày nay người ta lai giống tạo ra các loài có hàm lượng alcaloid cao và thu thu được dầu của hạt.

Thuốc phiện được trồng nhiều ở vùng khí hậu ôn đới và nhiệt đới từ lâu, nhưng vì là cây cho nhựa gây nghiện nên nhiều chính phủ đã cấm trồng thuốc phiện tự do; ở nhiều nước, nhà nước quản lý trồng và sản xuất thuốc phiện. Các nước trồng nhiều thuốc phiện Ấn Độ, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Tư, Nga, Mianma, Lào …

Tại Đông Nam Á, Tam giác Vàng (biên giới ba nước Lào, Thái Lan, Myanma), nổi tiếng là nơi sản xuất thuốc phiện lớn nhất thế giới. Ở Việt Nam, trước đây, vùng cao phía bắc Việt Nam trồng cây thuốc phiện vào vụ đông, thu hoạch nhựa đầu vụ xuân. Từ 1995, Việt Nam cấm trồng cây Anh Túc và thay thế bằng cây dược liệu, cây ăn quả, cây công nghiệp. Hiện nay, về cơ bản thuốc phiện đã bị xoá bỏ, tuy nhiên, còn có một số địa phương có tình trạng tái trồng cây thuốc phiện.

Thuốc phiện mọc tốt tại các vùng khí hậu mát. Cây chịu được khí hậu lạnh (từ 5-10 0 C) và nóng bức. Nhưng những tuần đầu tiên của sự sinh trưởng thời tiết phải mát và ẩm, sau đó khí hậu nóng và khô thì cây mới phát triển tốt, ở nước ta cây phù hợp với khí hậu vùng núi có độ cao 800 – 2000 m. Sau khi phơi khô, lá Coca được bó thành từng bó, để trong vòng 3 ngày trước khi đưa ra thị trường hoặc làm nguyên liệu cho quá trình sản xuất cocain.

Ở các nước có mùa đông giá lạnh người ta thường gieo hạt vào mùa xuân, có nơi gieo hạt vào cuối mùa thu cho tuyết rơi xuống bảo vệ hạtqua mùa đông và thu hoạch vào cuối tháng 7 đầu tháng 8. Ở nước ta thường gieo vào cuối tháng 10 đầu tháng 11, thu hoạch vào cuối tháng 3 đầu tháng 4.

Trước đây các nước châu Âu thường trồng loại cây thuốc phiện cho dầu để ép lấy dầu từ hạt và chiết alcaloid từ quả chín. Mặc dù hàm lượng alcaloid thấp (quả chín của cây thuốc phiện chưa qua giai đoạn chọn giống chỉ có 0,10 – 0,20% morphin trong khi đó nhựa thuốc phiện chưa 5 – 15% morphin) nhưng vì việc chích quả lấy nhựa đòi hỏi nhiều nhân công tốn kém.

Các nước châu Á thường trồng cây thuốc phiện để chính lấy nhựa. Ngày nay người ta thường trồng các loài thuốc phiện đã được cải tạo do các biện pháp trồng trọt và lai chọn giống có tỷ lệ alcaloid cao mà hoạt chất chính là morphin và đạt những yêu cầu về việc thu hái bằng cơ giới. Theo Mothes, có thể tạo ra những loài thuốc phiện chỉ giàu một alcaloid cần thiết nào đó (morphin, codein, thebain… ).

Tùy theo mục đích trồng để lấy nhựa hay lấy dầu và chiết xuất alcaloid từ quả mà có sự thu hái khác nhau.

Khi quả còn xanh bắt đầu chuyển sang màu vàng nhạt, phải chính lấy nhựa vào lúc trời khô ráo. Dụng cụ để rạch có 3 – 5 răng hình dáng khác nhau tùy theo địa phương, người ta rạch các vết ngang hay dọc hoặc nghiêng, hình xoắn ốc tùy theo từng nơi. Vết rạch phải đủ sâu tới các ống nhựa mủ của vỏ hoặc khi gặp mưa nước sẽ theo chỗ rạch vào trong quả làm thối hạt.

Có thể rạch một lần hay nhiều lần trên một quả. Người ta rạch nhựa vào buổi sáng, buổi chiều lấy cạo lấy nhựa. Hoặc rạch nhựa vào buổi trưa hay chiều hôm trước đến sáng sớm ngày hôm sau cạo lấy nhựa khô. Nói chung, sau khi rạch trên quả phải để 8 – 12 giờ cho nhựa tiếp xúc với không khí và ánh sáng làm khô dần. Sau đó dùng dao hoặc dụng cụ đơn giản bằng gỗ hay bằng sắt lấy nhựa quánh đen phơi nắng cho khô. Nhựa thuốc phiện có màu sẫm khi cứng lại; người ta đóng thành bánh có kích thước khác nhau (0,3 – 2 kg) và bọc bằng lá thuốc phiện hay bọc giấy đỏ … Ngay nay nhiều nơi người ta thường trộn nhựa của nhiều đợt lấy khác nhau để có chất lượng đều.

Mỗi quả thuốc phiện có khoảng 0,02g nhựa. Sản lượng tùy vào khí hậu và những yếu tố ảnh hưởng khác, chúng giao động trong khoảng 5 – 20 kg nhựa cho mỗi hecta. Năng suất trung bình ở ta thường đạt 10 – 15kg nhựa/1ha. Hàm lượng morphin trong nhựa thường là 12%.

b/ Thu hoạch quả để chiết alcaloid và lấy hạt ép dầu.

Việc chích nhựa như trên phải làm bằng tay tốn nhiều nhân công. Từ năm 1927 Kabay đã đem trồng thử tại Hungari để lấy quả chín chiết xuất alcaloid. Phương pháp này cũng có năng suất đảm bảo việc khai thác đem lại lợi ích kinh tế. Có nhiều ý kiến khác nhau về việc thu hoach tối ưu. Có tác giả cho rằng hàm lượng morphin đạt tối đa (0,3 – 0,4%) khoảng 10 ngày trước khi hạt chín hoàn toàn, thời tiết khô ráo thì hàm lượng alcaloid gần như không đổi, nhưng khi trời mưa thì giảm xuống đáng kể. Nhưng người ta ưa thu hoạch quả chín khi thân và lá đã khô vì hạt trong quả có hàm lượng dầu tối đa và đỡ công phơi sấy, đồng thời tránh bảo quản khối lượng lớn nguyên liệu như khi thu hoạch cây còn xanh.

Việc thu hái còn dùng tay ở những nơi trồng ít, còn những nơi trồng lớn thường dùng máy gặt đập. Năng suất đạt 300 – 500 kg vỏ quả và 300 – 500 kg hạt/ha.

Nhựa thuốc phiện lấy từ quả chín (Opium)

Quan sát bên ngoài: Bánh hình tròn hay hình vuông, có khi hình chữ nhật. Mặt ngoài màu nâu đen, đôi khi còn sót những mảnh lá hay vỏ quả thuốc phiện. Mặt cắt mịn hay hơi lổn nhổn. Khi còn mới thì mềm, dẻo, để lâu thì cứng, giòn. Mùi đặc biệt. vị đắng.

Soi kính hiển vi: Nghiền ít bột thuốc phiện trong dung dịch cloral hydrat 10%, soi kính hiển vi sẽ thấy: Những hạt nhỏ màu nâu, đứng riêng lẻ hay tụ thành đám, to nhỏ không đều (nhựa mủ). Mảnh vỏ quả ngoài gồm tế bào hình nhiều cạnh, có thành dày màu trắng nhạt. Khoang (lumem) hình sao trong chứa một chất màu nâu

– Quả chưa lấy nhựa dùng cho công nghiệp chiết xuất alcaloid có kèm theo đoạn cuống dài 10 – 12 cm.

– Quả hái sau khi lấy nhựa (anh túc xác, cù túc xác).

Tùy theo thứ mà có hình dạng và kích thước khác nhau, hình trứng hoặc tròn có lỗ mở hay không. Từ thành quả nang vào trong có 8 – 12 vách phân chia quả thành các ô không hoàn chỉnh mang hạt.

Quả thu hái trước khi chín hoàn toàn có màu vàng xám nhạt. Ở trạng thái khô quả không có mùi, vị hơi đắng. Phải loại hạt trước khi đem dùng trong ngành Dược.

Cắt ngang quả sẽ thấy: Vỏ quả ngoài có tế bào nhỏ, bên ngoài phủ một lớp cutin dày. Vỏ quả giữa bao gồm các tế bào thành bằng cellulose. Vỏ quả trong bào gồm các tế bào dẹt và lấm chấm kéo dài tới các lá noãn với mô mềm hơi xốp. Trước mỗi tấm lá noãn trong vỏ quả giữa có một bó libe gỗ với các sợi trụ bì, có các ống nhựa mủ xếp thành mạng lưới.

Hạt hình thận, rất nhỏ, đường kính khoảng 0,1 – 0,2 mm, cân nặng khoảng 0,1 – 2mg, mặt trên hạt có hình mạng. Màu vàng nhạt, trắng, xám, nâu hoặc đen tùy theo từng thứ thuốc phiện. Nội nhũ có nhiều dầu và alơron, phôi rất nhỏ, hạt không có mùi vị “dầu”.

Đôi khi cũng được dùng ngoài làm thuốc giảm đau.

– Lá: Chỉ có vết alcaloid (0,02 – 0,04%).

– Quả: Tỷ lệ alcaloid thay đổi tùy theo nòi.

– Trong quả khô thường có 0,02 – 0,03% alcaloid toàn phần, bằng con đường chọn giống người ta có thể nâng hàm lượng morphin lên ới 0,8%.

– Ở những quả khô đã lấy nhựa thì hàm lượng alcaloid nhất là morphin chỉ còn lại rất ít.

– Hạt: Không có alcaloid, chứa 15% glucid, 20% protein, 40 – 45% dầu. Dầu béo gồm các glycerid của các acid béo không no.

– Nhựa thuốc phiện: Hoạt chất trong nhựa thuốc phiện là các lcaloid (20 – 30%) ở dạng muối (meconat, lactat,…). Tới nay đã phân lập được khoảng 40 alcaloid. Căn cứ vào cấu tạo hóa học người ta xếp vào nhiều nhóm.

– Alcaloid chính là morphin: 6,8 – 20,8 % (thường điểu chỉnh tới 10% trong bột thuốc phiện dược dụng).

– Codein: 0,3 – 3%

– Thebain: 0,3 – 1%

– Papaverin: 0,8 – 1,5%

– Laudanin:

– Laudanosin:

– Noscapin (= Narcotin): 1,4 – 12,8%

– Narcotolin

– Protopin (= Fumarin)

– Cyptopin (Cryptocavin)

Ngoài alcaloid, trong nhựa thuốc phiện còn có:

– Các acid hữu cơ: Acid meconic (3 – 5%), acid lactic (1 – 2%), acid acetic, fumaric, vanilic, gần đây người ta còn thấy có acid cetonic (oxalcetic, pyruvic, cetoglutaric).

Trong các acid hữu cơ này có acid meconic cần chú ý. Nó cho màu đỏ máu với muối sắt (III), phản ứng này dùng để định tính nhựa thuốc phiện.

– Ngoài ra còn có nước (5 – 10%), chất vô cơ (5 – 6%), đường, chất nhày và pectin (20%) ít protid và acid amin tự do, lipid, chất cao su, tanin, men…

Có nhiều phương pháp tùy theo từng tác giả

Theo phương pháp của Thiboumery: Chiết nhựa thuốc phiện bằng nước nóng. Rót dịch chiết vào sữa vôi nóng, calci morphinat tan trong nước vôi thừa, còn tạp chất thì tủa xuống. Lọc, đun sôi dịch lọc và thêm amoni clorid sẽ có morphin base tủa xuống. Rửa tủa bằng nước, rồi hòa tan trong acid HCl sẽ có morphin hydroclorid, sau cho kết tinh lại nhiều lấn sẽ thu được morphin hydroclorid tinh khiết.

Ngoài ra còn nhiều phương pháp khác. Hiện nay người ta còn dùng các nhựa trao đổi ion, morphin gắn vào nhựa anion có tính kiềm mạnh (anioit), sau đó đem ngâm tách bằng acid loãng.

Chiết từ quả khô chưa chích nhựa:

Theo phương pháp Kabay: Lấy quả thuốc phiện khô có đoạn cuống 10 – 12cm xay nhỏ. Chiết bột dược liệu bằng nước nóng, cô dịch chiết thành cao đặc, chiết lại bằng cồn, cất thu hồi dung môi và tủa morphin bằng amoni sulfat ở môi trường kiềm có benzen. Lấy riêng tủa morphin. Có một số alcaloid khác như codein, narcotin và thebain… hòa tan trong benzen. Tách lớp benzen rồi lần lượt làm kết tủa để lấy riêng codein, narcotin và thebain bằng cách tạo muối thích hợp.

Ngoài ra người ta còn phân lập morphin và các alcaloid phụ bằng phương pháp trao đổi ion.

Ngâm 0,5g thuốc phiện trong 10ml nước, lọc. Thêm vào dịch lọc vài giọt acid hydrocloric đậm đặc (TT) và 10 ml ether. Lắc và để yên. Gạn lấy lớp ether cho vào một ống nghiệm. Thêm 2 – 3 ml nước có pha một giọt dung dịch FeCl 3 5% (TT). Lắc và để yên lớp nước sẽ xuất hiện màu đỏ.

– Xác định alcaloid: Lắc 0,2 g thuốc phiện với 5ml chloroform và vài giọt dung dich amoniac trong 10 phút. Để bốc hơi tự nhiên chloroform trên mặt kính đồng hồ, ở xung quanh sẽ có một vòng tủa tinh thể màu trắng xám nhạt. Thêm 2 giọt thuốc thử sulfoformol sẽ xuất hiện màu đỏ sẫm (phản ứng do morphin).

– Phản ứng Huseman: Chiết bột thuốc phiện bằng chloroform có amoniac, bốc hơi dịch chiết, cho vào cắn 0,5 – 1 ml acid H­­ 2SO 4 đặc, đun 30 phút trong nồi cách thủy sôi; nếu có morphin thì dung dich xuất hiện màu đỏ vàng. Sau khi nguội cho thêm một giọt acid HNO 3 đặc sẽ xuất hiện ngay màu xanh đến tím đỏ va màu này sẽ mất dần (do morphin chuyển thành apomorphin).

– Xác định alcaloid bằng sắc ký giấy: Chiết lấy cồn thuốc phiện 1/10 (Dùng cồn 60 0) chấm lên giấy đã tẩm dung dịch monokali photphat 0,2M, dùng dung môi khai triển là n-butanol bão hòa nước (có so sánh với mẫu chuẩn của morphin, codein, papaverin, noscapin). Sau khi khai triển và sấy khô, phun lên giấy sắc ký thuốc thử Dragendorff (hoặc dùng kali iodoplatinat).

– Xác định alcaloid bằng sắc ký lớp mỏng: Có nhiều tác giả nghiên cứu định tính các alcaloid trong thuốc phiện bằng sắc ký lớp mỏng. Theo Neubauer và Mothes để kiểm tra nhựa thuốc phiện có thể dùng chất hấp phụ là silicagen G với dung môi khai triển là benzen + metanol (80 + 20) sẽ tách được 10 alcaloid; dùng thuốc thử Dragendorff để phun hiện màu. Bayer dùng chất hấp phụ là silicagen G với hệ dung môi là xylol: metyletylceton: metanol: dietylamin (40: 60: 6: 2) sẽ tách được narcotin có R f: 0,74; papaverin 0,59, thebain 0,45, codein 0,26, morphin 0,12. Dùng hệ dung môi khai triển là: CHCl 3: MeOH: NH 4 OH [50: 9: 1] có thể tách được trên 10 alcaloid.

Muốn định lượng morphin phải chiết riêng được morphin rồi định lượng bằng phương pháp đo thể tích, phương pháp cân hay phương pháp so màu.

Vì morphin có chứa OH – phenol nên tan trong dung dịch nước có tính chất kiềm và không tan trong các dung môi hữu cơ thường dùng như những alcaloid khác, do đó quá trình chiết tách morphin không thể áp dụng như các phương pháp thông thường.

a/ Định lượng morphin trong nhựa thuốc phiện bằng phương pháp đo thể tích

Quá trình tiến hành được ghi chi tiết trong dược điển Việt Nam II (và một số dược điển khác như Dược điển Quốc tế, Dược điển Pháp..) ở đây chỉ giải thích những điểm chủ yếu của phương pháp

– Morphin tồn tại ở thuốc phiện dưới dạng muối tan trong nước (đặc biệt là meconat). Nếu chiết bằng nước sẽ không chiệt để và có một số muối alcaloid khác cũng tan theo. Người ta dùng nước vôi, các alcaloid khác bị vôi đẩy, còn morphin vì có chức phenol nên tạo ra calci meconat. Tuy nhiên cũng có một ít alcaloid khác như narcotin, nacetin… cũng tan theo morphin, như vậy trong dịch chứa calci morphinat còn ít vôi thừa và một phần nhỏ vài alcaloid khác.

– Với số lượng dịch lọc đã cân trước cho thêm amoni clorid, chất này phản ứng với nước vôi tạo ra amoniac. Amoniac giải phóng làm tủa morphin và lượng amoniac thừa quá ít không đủ để hòa tan lại alcaloid. Mặt khác, amoi clorid thừa có tác dụng đệm nên cũng hạn chế số morphin hòa tan lại nếu có amoniac thừa. Tủa tạo ra với sự có mặt của cồn 90 0 và ether là để loại những tạp chất đi kèm theo morphin (nhựa, narcotin …). Sau 24 giờ, lọc lấy tủa morphin trên phễu thủy tinh xốp, rửa tủa bằng ether rồi bằng nước bão hòa morphin và ether cho đến khi loại hết clorid. Sau đem sấy khô ở 100 – 105 0 C trong 30 phút.

– Hòa tan morphin trong metanol nóng, metanol không hòa tan vôi và các muối calci. Chuẩn độ bằng HCl 0,1N, dùng chỉ thị màu metyl đỏ, có thêm nước pha loãng để chuẩn độ sau cùng.

– Trong công thức tính toán kết quả định lượng người ta cộng thêm 1 vào số ml dung dịch HCl 0,1N đã dùng và để bù vào lượng morphin hao hụt do còn lại trong dung dịch. Mặt khác để tính toán so với thuốc phiện khan nên cần phải tính đến hàm lượng nước chứa trong nhựa đem kiểm nghiệm, xác định nó bằng cách loại nước ở tủ sấy 100 – 105 0C. Trong dung dịch chiết, vì phải xử lý thuốc phiện bằng nước và vôi nên khối dịch lọc lấy bao gồm các chất hòa tan, lượng nước có trong mẫu thuốc phiện kiểm nghiệm và lượng nước mới cho thêm vào. Để xác định dịch chiết calci, đem bốc hơi một phần nhất định dịch lọc và đem cân cặn đã sấy ở 100 0 C.

Trong công thức có tính đến hàm lượng nước trong thuốc phiện và dịch chiết calci cho phép tính hàm lượng morphin trong nhựa đã kiểm nghiệm ra morphin khan.

b/ Định lượng morphin trong quả thuốc phiện khô:

– Nguyên tắc: Chiết bột quả thuốc phiện khô bằng n- propanol trong môi trường HCl 0,1N ở bình Soxhlet trong 3-4 h cho đến kiệt alcaloid. Bốc hơi dung môi n – propanol, cắn khô chứa morphin và các alcaloid phụ ở dạnh muối hydroclorid hòa tan nóng trong HCl 1N, để nguội, lọc, lắc với chloroforrm nhiều lần để loại tạp chất. Bay hơi hết cloroform. Lấy một thể tích thích hợp dịch chiết cô cách thủy đến khô. Hòa tan cắn bằng NaOH. Lắc nhiều lần với cloroform để loại alcaloid phụ.

Trung tính dịch chiết morphin bằng HCl tới pH = 7 rồi lắc với hh dung môi cloroform : isopropanol (3:1), sau kiềm hóa bằng NaHCO 3 4% tới pH 9 và lắc tiếp với hh dmôi trên. Gộp dịch chiết cloroform : isopropanol lại và lọc qua Na 2SO 4 khan. Cất thu hồi dung môi. Cắn morphin base hòa tan trong HCl 0,1N dư, chuẩn độ acid thưa bằng NaOH 0,1N, chỉ thị màu là đỏ metyl.

1ml HCl 0,1N tương ứng 28,53mg morphin base khan.

Ngoài ra, còn có thể định lượng morphin trong nhựa hoặc trong quả khô bằng các phương pháp khác.

– Phương pháp cân (theo Pfeifer): Cho morphin tác dụng với dinitrofluobenzen sẽ tạo tủa morphindinitrophenylete, lấy riêng tủa, sấy khô rồi cân.

– Phương pháp so màu (theo Kleischmitdt và Mothes). Dựa theo nguyên tắc chuyển morphin thành 2 – nitrosomorphine. 2 – nitrosomorphin sẽ cho màu đỏ đậm trong môi trường kiềm.

– Phân lập morphin bằng sắc ký hay điện di trên giấy, phun hiện màu bằng thuốc thử Dragendorff rồi đo mật độ quang, hoặc phân lập bằng sắc ký lớp mỏng, chiết lấy riêng morphin rồi định lượng bằng phương pháp so này hay quang phổ tử ngoại.

Thuốc phiện có tác dụng giảm đau rất tốt nhưng dùng lâu gây nghiện nên đã xếp thuốc vào thuốc độc bảng A nghiện.

Đối với hệ thần kinh trung ương, thuốc phiện có tác dụng lên vỏ não và trung tâm gây đau. Dùng liều nhỏ, lúc đầu gây cảm giác kích thích dễ chịu, thoải mái, sau làm mất cảm giác đau. Với liều cao gây ngủ. Có tác dụng lên trungtaam hô hấp và hành tủy làm cho nhịp thở thoạt đầu nhanh, nông, sau chậm lại. Khi bị ngộ độc có thể ngừng thở. Có tác dụng làm giảm kích thích ho.

Đối với bộ máy tiêu hóa: Liều nhỏ kích thích co bóp dạ dày, có thể gây nôn, liều cao có tác dụng chông nôn, khi uống làm giảm nhu động ruột nên dùng chữa ỉa chảy.

Morphin có tác dụng lên thần kinh trung ương nhất là vỏ não, ức chế trung tâm đau gây ngủ. Liều thấp kích thích hô hấp, liều cao hơn thì ức chế trung tâm này, liều cao có thể làm liệt hô hấp. Morphin cũng ức chế trung tâm ho nhưng kém hơn codein.

Codein ít độc hơn morphin, tác dụng giảm đau kém nhưng tác dung ức chế trung tâm ho mạnh nên được dùng làm thuốc chữa ho tốt. Lạm dụng thuốc sẽ bị nghiện.

Papaverin kích thích thần kinh ngoại biên, làm giảm co thắt cơ trơn, đặc biệt đối với dạ dày và ruột.

Noscapin không gây ngủ, co giật ở liều cao nên trong các thuốc phiện người ta thường loại bỏ nó đi; tuy vậy, đôi khi người ta cũng kết hợp với morphin để làm tăng tác dụng giảm đau đồng thời ngăn cản hiện tượnglamf liệt trung tâm hô hấp do morphin. Ngoài ra, noscapin được dùng để điều chế cotacnin có tác dụng cầm máu.

a/ Đối với quả chưa chích nhựa

– Dùng để chiết xuất morphin, đa phần morphin được chuyển thành codein.

– Chế cao toàn phần để làm thuốc thay thế cho nhựa thuốc phiện.

– Dùng làm thuốc giảm đau

b/ Quả đã chích nhựa (anh túc xác)

– Làm thuốc chữa ho, tả, lỵ, đau bụng, giảm đau. Dùng 4-6g/ngày dưới dạng thuốc sắc hay hãm.

Một phần được dùng làm thực phẩm cho người hoặc chim. Đa phần dùng để ép dầu. Dầu dùng để ăn, dùng trong công nghiệp sơn và dùng trong ngành Dược. Dầu dùng để chế dầu iod (lipiodol hoặc iodolipol) dùng làm thuốc cản quang khi chiếu các xoang trong cơ thể, chế thuốc xoa bóp, thuốc mỡ… Bã dầu dung làm thức ăn gia súc.

– Dùng làm thuốc giảm đau, thuốc ngủ, thuốc ho, chữa ỉa chảy. Nhựa thường dùng phối hợp với các vị thuốc dưới dạng cao đơn hoàn tán hoặc ở các dạng:

+ Bột thuốc phiện (10% morphin), uống liều 0,05g/lần và 0,2g/24h

+ Cao thuốc phiện (20% morphin) dùng liều 0,05-0,1g/24h

+ Cồn thuốc phiện (1% morphin), 56 giọt = 1g dùng 1-3g/24h

Nhựa thuốc phiện xếp loại độc A gây nghiện, không được dùng liên tục quá 7 ngày và phải rất thận trọng khi dùng cho trẻ em và người già.

– Dùng để chiết xuất alcaloid. Phần lớn việc sản xuất nhựa thuốc phiện hợp pháp dùng để chiết xuất morphin. Trên thế giới hàng năm cần hàng trăm tấn.

Morphin dùng làm thuốc giảm đau, chữa co giật mê sảng, động kinh. Thường dùng dưới dạng morphin hydroclorid để tiêm dưới da hoặc tiêm bắp. Liều tối đa 0,02g/1 lần và 0,05g/24h.

Việc tiêu thụ morphin không nhiều còn phần lớn dùng để điều chế các dẫn chất như codein, codetylin…

Codein dùng để chữa ho, dùng dưới dạng bột, viên, siro… codetylin cũng có tác dụng tương tự codein.

Papaverin dùng làm thuốc giảm đau dùng trong bệnh co thắt dạ dày, ruột, mật, co thắt tử cung trong khi đẻ, đe dọa xẩy thai, co thắt mạch máu… Papaverin dùng trên thị trường phần lớn được điều chế bàng PP tổng hợp.

Narcein và thebain ít được sử dụng.

Đôi khi được dùng làm thuốc giảm đau.

Heroin (= Diacetylmorphin) là chế phẩm bán tổng hợp từ morphin, là chất ma túy gây nghiện rất mạnh. Người bị nghiện sẽ suy sụp nhanh chóng về thể xác và tinh thần. Dùng liều khoảng 0,06g có thể gây chết người sau khi tiêm.

Copy xin vui lòng ghi nguồn duoclieu.edu.vn

Tội Trồng Cây Thuốc Phiện Hình Phạt Thế Nào ” Luật Thái An™

1. Cơ sở pháp lý quy định hình phạt đối với tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy

2. Điều kiện truy cứu tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy

3. Hình phạt chính đối với tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy

4. Hình phạt chính tăng nặng đối với tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy

5. Hình phạt bổ sung đối với tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy

6. Hình phạt giảm nhẹ đối với tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy

7. Dịch vụ luật sư bào chữa hình sự của Luật Thái An

1. Cơ sở pháp lý quy định hình phạt đối với tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy

Cơ sở pháp lý quy định hình phạt tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy là Điều 247 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

2. Điều kiện truy cứu tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy

Điều kiện để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy gồm:

Người có hành vi phạm tội đã được giáo dục 02 lần và đã được tạo điều kiện ổn định cuộc sống;

Người có hành vi phạm tội đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

Người có hành vi phạm tội trồng với số lượng từ 500 cây đến dưới 3.000 cây.

Hình phạt chính đối với tội tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy là bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

4. Hình phạt chính tăng nặng đối với tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy

Nếu phạm tội có tổ chức hoặc trồng với số lượng từ 3 ngàn cây trở lên hoặc tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.

5. Hình phạt bổ sung đối với tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

6. Hình phạt giảm nhẹ đối với tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy

Người nào phạm tội nhưng đã tự nguyện phá bỏ, giao nộp cho cơ quan chức năng có thẩm quyền trước khi thu hoạch, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.

Xin lưu ý là sau thời điểm chúng tôi viết bài này, luật pháp đã thay đổi các quy định về tội tổ chức sử dụng ma túy. Hãy tham vấn luật sư qua Tổng đài tư vấn Luật Hình Sự nếu Bạn cần biết chi tiết về tất cả các loại tội phạm ma túy và khung hình phạt đối với từng tội.

7. Dịch vụ luật sư bào chữa hình sự của Luật Thái An

a) Tại sao nên sử dụng dịch vụ luật sư bào chữa hình sự ?

Hiến pháp nước ta và Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành đều quy định về quyền được thuê luật sư bào chữa trong các vụ án hình sự: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư bào chữa hoặc người khác bào chữa”. Sử dụng dịch vụ luật sư bào chữa, người phạm tội sẽ được bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. Bạn hãy đọc bài viết Dịch vụ luật sư bào chữa để hiểu những lợi ích to lớn cho mình.

b) Bảng giá dịch vụ luật sư bào chữa của Luật Thái An

Bạn có thể đọc bài viết Bảng giá dịch vụ thuê luật sư tranh tụng để có thêm thông tin, cụ thể là ở phần dịch vụ thuê luật sư vụ án hình sự.

c) Quy trình dịch vụ luật sư bào chữa của Luật Thái An

Mời bạn đọc bài viết Quy trình dịch vụ thuê luật sư tranh tụng của Luật Thái An.

HÃY LIÊN HỆ NGAY VỚI CHÚNG TÔI ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN VÀ SỬ DỤNG DỊCH VỤ

Cây Phân Xanh, Phương Thuốc Của Đất

Để có thể đạt hiệu quả cao trong canh tác nông nghiệp một cách tự nhiên, bạn cần kiến tạo một môi trường đất đa dạng và phong phú. Trồng cây phân xanh đã và đang là phương cách mà nhiều người áp dụng. Để có thể thấu hiểu những lợi ích từ cây phân xanh, mời bạn đọc qua bài viết này.

Cây phân xanh là gì?

Cây phân xanh là những cây có thể trồng đan xen cùng những cây trồng chính và làm thức ăn cho gia súc để lấy phân thải ra. Mục đích chính của loại cây này là cải tạo đất.

Cây phân xanh dễ trồng, tăng trưởng rất tốt. Cây phân xanh thường được trồng luân canh, xen canh cùng cây trồng chính. Khi cây phân xanh được cày vùi vào đất sẽ làm tăng dinh dưỡng cho đất.

Không nên để cây phân xanh có hạt rồi mới vùi vào đất, vì khi đó hạt cây phân xanh nếu nảy mầm sẽ gây cản trở đến quá trình phát triển của cây trồng chính. Bên cạnh việc được dùng như phân bón cho cây trồng, những loại cây phân xanh còn được sử dụng để làm cây phủ đất, cây che bóng, cây giữ đất chống xói mòn, cây cải tạo đất, nâng cao độ phì nhiêu của đất. Nguyên liệu dùng làm phân xanh thường là các cây cỏ dại, cây thảo mộc, lá xoan, cây họ đậu…

Cây họ đậu là một loại cây phủ đất, đồng thời là cây phân xanh phổ biến

Cây phân xanh có thể là cây thảo mộc hàng năm, hai năm hoặc lâu. Tại một số quốc gia trên thế giới, người ta thường dùng các rau họ cải như cải cay, cải dầu, cây họ đậu như đậu cánh chim, đậu tằm, đậu răng ngựa hoặc cỏ ba lá, cỏ họ hòa thảo và các loài khác như hướng dương,… để làm phân xanh.

Còn ở Việt Nam thì thường dùng các cây phân xanh như những cây họ đậu, lạc dại, bèo hoa dâu, bớp bớp, keo dậu, lục lạc sợi, điên điển, lục bình, dã quỳ, đậu triều, … Thêm vào đó còn có lúa miến, cây kê, một vài giống cỏ nhiều sinh khối như cả sả, cỏ voi, cỏ ruzi,…

Diệu dụng từ cây phân xanh

Rễ của chúng ăn sâu vào đất, khiến đất tơi hơn đồng thời kết dính dinh dưỡng trong đất giúp chúng không bị rửa trôi.

Chúng ngăn chặn cỏ dại, giúp đất không bị xói mòn và bảo vệ đất khỏi ánh nắng trực tiếp.

Nếu dùng những cây họ đậu, nó sẽ giúp cố định đạm từ khí quyển vào trong đất

Một vài cây phân xanh được dùng làm thức ăn khô cho chăn nuôi và luôn cả cung cấp thực phẩm cho con người (như quả, hạt đậu đỗ, thân lá cỏ sả, cỏ voi).

Công năng vượt trội

Tăng hàm lượng chất hữu cơ và đạm cho đất. Trên thực tế, thân, lá cây phân xanh cung cấp cho đất mỗi héc-ta từ 15 – 30 tấn chất xanh, tức khoảng 3 – 4 tấn chất khô tạo mùn cho đất, có khả năng cải tạo lý tính và hóa tính cho đất, giúp đất cát gắn kết, do đó đất có thể giữ nước và phân mà không sợ bị nước rửa trôi. Bảo vệ đất khỏi bị xói mòn từ những trận mưa bão lớn.

Cây phân xanh cải tạo tầng canh tác, trồng và cày vùi cây phân xanh không những làm tăng chất hữu cơ và đạm cho tầng canh tác mà còn giúp phong phú thêm lân, canxi, magiê…

Tăng cường khả năng trao đổi cation (CEC) và giảm thất thoát dưỡng chất qua những tầng của đất, giữ ẩm, làm mát đất trồng khi nhiệt độ cao. Nhìn chung, nó giúp duy trì và cải thiện cơ cấu đất cho loại đất mịn vùng nhiệt đới.

Cây phân xanh cung cấp cho đất nhiều chất hữu cơ từ đó gia tăng tương tác cho những vi sinh vật trong đất. Sự gia tăng hoạt động sinh học giúp phát triển đất màu mỡ.

Cách sử dụng cây phân xanh hiệu quả

Cắt ngắn lá cày vùi trực tiếp vào đất, đây là cách đơn giản, thuận tiện, ít tốn công.

Cắt cành lá thân cây phân xanh che phủ lên bề mặt đất hay gốc cây trồng.

Ủ hoai mục phần thân, lá của cây rồi mới bón cho cây trồng. Cách này thường áp dụng với trường hợp thời kỳ thu hoạch cây phân xanh không trùng với vụ làm đất gieo trồng.

Cây phân xanh có thể cắt tỉa phủ trực tiếp lên bề mặt đất trồng hoặc ủ thành phân

Sử dụng cây phân xanh làm thức ăn chăn nuôi gia súc để lấy phân thải ra. Đây là cách có hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, phải chọn loại cây phân xanh thích hợp khẩu vị của gia súc và giàu dinh dưỡng, cần lưu ý điểm này.

Cây phân xanh đóng vai trò quan trọng trong khắc phục rủi ro nông nghiệp. Để tối đa hóa được lợi ích từ phân xanh đối với canh tác, người sản xuất cần hiểu rõ, chọn đúng loại và trồng đúng cách để mang lại hiệu quả cao nhất. 

Trồng Cây Cam Theo Phương Pháp Hữu Cơ

Trồng cây cam theo phương pháp hữu cơ

Tại vùng đất ven sông màu mỡ ở xã Hồng Lý, huyện Vũ Thư, các loại cây ăn quả dòng cây có múi như cây cam canh, cam vinh, đang là cây trồng chủ lực. Đặc biệt, ở nơi đây, cây cam được chăm sóc hoàn toàn bằng phương pháp hữu cơ, nhằm cung cấp những dòng hoa quả sạch, an toàn ra thị trường. Thay đổi phương pháp trồng đã giúp người dân tiếp cận và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong chăm sóc cây ăn quả, hướng tới một nền nông nghiệp sạch.

Đã từ 4 – 5 năm nay, từ khi một số hộ dân ở xã Hồng Lý, huyện Vũ Thư du nhập các dòng cây ăn quả về trồng tại vùng đất chuyển đổi tại thôn Hội Khê, thì nơi đây đã hình thành một vùng cây trồng cây ăn quả bạt ngàn và mang lại giá trị kinh tế cao cho người dân Hồng Lý. Với 2 loại cây ăn quả chính là cam canh và cam vinh.

Ông Vũ Đình Thành – thôn Hội Khê, xã Hồng Lý, huyện Vũ Thư: T ôi lên quê ngoại ở Văn Giang, Hưng Yên có thấy trên đó trồng cây cam canh, bao năm nay, thấy hiệu quả. Nghĩ tại sao ở vùng đất phù sa ở Hồng Lý lại không trồng được, có ý định đem về trồng. Mới đầu khoảng 200 300 cây, sau đó thấy hiệu quả, năng suất rồi nhân rộng ra giờ là hơn 700 của 2 loại cam canh và cam vinh.

Cũng chính vì nhận thấy dòng hoa quả sạch đang được thị trường ưa chuộng, nên việc lựa chọn phương pháp chăm sóc theo phương pháp hữu cơ đã được những chủ vườn xác định ngay từ đầu. Do đó, cây cam canh, cam vinh tùy từng thời điểm sinh trưởng, phát triển sẽ được chăm sóc khác nhau. Đặc biệt là thời kỳ cây ra hoa đậu quả và bắt đầu thời kỳ quả vào ngọt.

Ông Vũ Đình Thành – thôn Hội Khê, xã Hồng Lý, huyện Vũ Thư: Chăm sóc hoàn toàn bằng phương pháp hữu cơ, không sử dụng thuốc hóa học, tham khảo một số loại thuốc sinh học ở vùng trồng quả nhiều ở Đồng Nai,.. miền Trung hay dùng.

Ông Nguyễn Hồng Khanh – Chủ tịch Hội nông dân xã Hồng Lý, huyện Vũ Thư: Năm 2018, 2019 về mô hình hội viên kinh doanh sản xuất giỏi ở Hồng Lý, có nhiều hội viên tập trung vào làm vườn, đặc biệt là trồng loại cây có múi như cam, bưởi, quất cảnh. Đều hướng tới chăm sóc theo phương pháp hữu cơ. Như gia đình ông Vũ Đình Thành và một số hộ khác có chứng nhận hoa quả sạch, được một số siêu thị đặt mua.

Việc áp dụng trồng cây cam từ phân bón hữu cơ, phân bón vi sinh, sẽ tạo cho cây cam sinh trưởng phát triển tốt, ra quả sớm, năng suất và đặc biệt là kéo dài thời gian tuổi thọ của cây trồng. Cụ thể, với một cây cam vinh, cam canh từ năm thứ 3,4 đã cho thu hoạch gần 60kg quả/cây, thậm chí có những cây cho năng suất gần 1 tạ quả mỗi năm.

Bà Văn Thị Nga – một hộ làm vườn khác tại xã Hồng Lý: Nhà tôi trồng cam canh 4 năm nay rồi, có 200 gốc cam canh và cam vinh. 2 dòng cam này vốn được ghép từ gốc bưởi, nên sinh trưởng tốt, khỏe, cho quả năng suất.

Theo đánh giá của người dân nơi đây thì các dòng cây có múi chăm sóc theo phương pháp hữu cơ có hiệu quả năng suất và mang lại giá trị kinh tế cao, đã và đang được xuất bán vào các siêu thị tại Thái Bình và Nam Định. Từ những vườn cam sai trĩu quả, đã mang lại cho họ thu nhập gần 300 triệu đồng mỗi năm. Việc tiếp cận với phương pháp trồng cây ăn quả theo phương pháp hữu cơ đã và đang thay đổi thói quen canh tác của người dân Hồng Lý, góp phần hướng tới một nền nông nghiệp sạch.

Phương Thúy