Kỹ Thuật Trồng Tràm Cao Sản / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Duhocaustralia.edu.vn

Kỹ Thuật Trồng Ngô Cao Sản

Làm đất

Cày bừa đất tơi xốp; làm sạch cỏ trước khi gieo. Nếu sử dụng phân hữu cơ nên bón vào thời gian cày bừa là cao nhất.

Gieo hạt

Cần làm rạch hoặc cuốc đất sâu 4cm rồi gieo hạt và lấp đất. Khi gieo có thể xử lý bằng 15-20kg Basudin 10H/ha để phòng kiến, dế phá hoại cây con .

Mật độ gieo

Trồng với mật độ 57.000 – 60.000 cây/ha, lượng hạt giống 13-14 kg/ha. Gieo cây cách cây 20-25cm, hàng cách hàng 70-75cm, mỗi hốc một hạt.

Phân bón

Là giống ngô cao sản ngắn ngày nên cần bón phân sớm, đầy đủ và đúng lúc để cây phát triển tốt, cho năng suất cao.

Liều lượng cho 1 ha: phân chuồng 5-10 tấn + 140kg đạm + 100kg lân + 10kg kali (hoặc 30kg urê + 600kg supe lân + 150 kg clorua kali).

Nếu sử dụng phân hỗn hợp với mộttrong các loại phân sau cho 1 ha, lượng dùng: 200kg DAP + 200kg urê + 150kg KCL; 400kg NPK (20-20-15) + 130kg urê; 500kg NPK (16-16-8) + 130kg urê + 80kg KCL; 1.000kg NPK (14-8-6) + 150kg urê + 300kg supe lân + 50kg KCL.

Bón lót toàn bộ phân chuồng và lân hoặc DAP. Bón thúc lần 1 sau 8-12 ngày gieo, dùng phân bón lá xịt lên cây; thúc lần 2 sau 20-25 ngày gieo, bón 1/3 lượng urê + 1/3 lượng kali; thúc lần 3 sau 35-40 ngày gieo, bón 1/3 lượng urê + 1/3 lượng kali; thúc lần 4 sau 50-55 ngày gieo, bón nốt lượng urê và kali.

Chăm sóc

Chủ yếu là xới xáo và làm cỏ sớm. Đất trồng phải được xới tơi xốp để bộ rễ phát triển tốt. Nên kết hợp làm cỏ trước khi bón phân để tránh sự cạnh tranh dinh dưỡng của cỏ dại làm giảm năng suất ngô và lây lan sâu bệnh cho cây trồng.

Chú ý: Nên bổ sung nước trong giai đoạn trổ cờ, phun râu và chín sữa nếu thời tiết hạn, không mưa.

Phòng trừ sâu bệnh

Sử dụng Validacin để phòng bệnh đốm vằn, trong chu kỳ trồng nên phun xịt 1-2 lần (giai đoạn 15-20 ngày và 35-40 ngày tuổi). Sử dụng Furadan 3H hoặc Regent phòng bệnh đốm lá lớn (xuất hiện các đốm lá trắng và lan rộng trên lá) bằng cách rắc vào loa kèn khi ngô còn non hay dùng Azodrim để phun xịt khi thấy có sâu xanh, sâu đục thân, rệp rầy… xuất hiện.

Nguồn: Kinh tế V.A.C Chuyên đề dân tộc thiểu số và miền núi (số 12) 20/3/06

Kỹ Thuật Trồng Cây Tràm Ta

Tràm ta ra hoa, kết quả quanh năm, trổ hoa trong 3-5 ngày, thụ phấn nhờ côn trùng. Quả tồn tại trên cây một vài năm và hạt không rơi ra trừ khi cây bị ngừng cung cấp nước.

Mọc tự nhiên ở vùng ven biển, cận ven biển nhiệt đới bang Queensland, vùng Tây và Bắc nước Úc và mở rộng vào nội địa đến 350km dọc theo các sông chính. Thường mọc trên địa hình phẳng, thoai thoải ở các lòng sông, đồng bằng ven biển hoặc các đầm lầy theo mùa. Tràm ta còn phân bố đến Papua New Guinea và Đông Inđônêxia.

Ở nước ta chỉ có một loài tràm này chủ yếu phân bố tự nhiên và cũng đã được gây trồng nhiều trên các vùng đất ngập phèn thuộc các tỉnh ven biển miền Tây Nam Bộ.

Ở các nước Tràm ta mọc tự nhiên trên đất bùn đến đất sét nhiều bùn hoặc cát pha phủ trên đất sét, hoặc trên các đụn cát cũ và đất bồi nhiều đá ở biển nơi có nước ngầm hơi mặn.

Tràm ta thích hợp với vùng thấp có khí hậu nóng ẩm, đến cận ẩm, ấm ở bờ biển hoặc vùng nội đồng có đủ nước ngầm đến vùng nóng ẩm bán khô hạn. Thích hợp ở nơi mưa theo mùa, 422-4065mm /năm, khô 0-8 tháng. Nhiệt độ tối đa tháng nóng nhất 28-39 oC, tối thiểu tháng lạnh nhất 7-21 oC, trung bình năm 19-29 o C. Độ cao dưới 100-150m so với mực nước biển.

Ở Việt Nam, Tràm ta còn mọc tự nhiên ở Bình Thuận, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên trên đồi trọc và đất cát cố định cồn bãi cao, thấp và cũng bắt đầu được gây trồng thành công trên vùng đất bán ngập ở chân núi đá vôi Gia Viễn – Ninh Bình, Mỹ Đức – Hà Nội và ở ven hồ Hoà Bình, Thác Bà.

Tràm ta có thể chịu được ngập nước 6 tháng mùa mưa, nước ngập sâu 0,5-1,0m, thích hợp trên đất phèn yếu và trung bình với thành phần cơ giới sét nặng, chịu được đất có độc tố do hàm lượng muối phèn cao, H 2S, Fe++ và phản ứng đất rất chua với pH=2,5-3,0. Tuy nhiên, Tràm ta cũng có thể trồng được trên đất ít chua, không ngập nước.

Tràm ta là loài cây ưa sáng hoàn toàn, tán lá hẹp và thưa nên có thể mọc thành quần thụ thuần loài dày đặc từ 10000-20000 cây/ha.

Ưu tiên sử dụng hạt giống được thu hái ở các rừng giống, vườn giống, đặc biệt chọn vật liệu giống ở các xuất xứ đã được công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật gồm xuất xứ 7V01 (Mộc Hóa – Long An), 7V05 (Tịnh Biên – An Giang), 7V07 (Vĩnh Hưng – Long An) để nhân giống phục vụ trồng rừng.

Chuẩn bị đất gieo ươm theo hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật. Có thể tưới phun bằng bình phun thuốc trừ sâu trực tiếp lên luống gieo hoặc tưới cho luống gieo theo phương pháp thẩm thấu.

Trộn hạt với cát mịn đã được rang khử trùng theo tỷ lệ 1 phần hạt : 5 phần cát. Tưới nước đủ ẩm cho luống gieo. Gieo hạt trên luống với lượng 2g hạt/m 2. 1 gam hạt gieo thu được 4000- 5000 cây mạ. Sau khi gieo cần phủ một lớp cát mỏng trên mặt luống. Làm khung che nilon để che mưa.

Phun tưới nước đủ ẩm thường xuyên cho luống gieo. Phun Benlát pha 1g/1 lít nước khi hạt nảy mầm được 10 ngày và phun định kỳ 15 ngày một lần để diệt nấm.

Khi gặp mưa lớn hoặc nắng gắt cần có biện pháp che chắn bảo vệ cây non. Phát hiện và có biện pháp diệt chuột, phòng trừ sâu ăn lá, sâu cuốn lá, sâu đục chồi, bệnh thối cây, bệnh đốm lá.

Tiêu chuẩn cây con đem trồng: Cây ươm 8-10 tuần tính từ khi cấy, cao 40-50cm, sinh trưởng tốt, không sâu bệnh, cụt ngọn.

Thời vụ trồng ở các tỉnh vùng cát ven biển Bắc Trung Bộ vào tháng 10-12, các tỉnh Nam Trung Bộ vào tháng 9-10.

Có thể trồng thuần loài hoặc hỗn giao theo băng với Keo lá liềm, Keo lá tràm, Bạch đàn trắng. Trồng rừng toàn diện hoặc trồng thành đai lưới ô vuông, ở giữa trồng cây nông nghiệp hoặc thả cá ở nơi bãi cát ngập nước quanh năm.

Trên bãi cát không ngập nước cần đào đất và trồng cây dưới rãnh, nơi bãi cát ngập nước mùa mưa phải lên líp cao 0,4-0,6m và nơi bãi cát ngập nước quanh năm phải lên líp cao 0,7-1,0m để trồng Tràm.

Mật độ trồng rừng trên các líp, không tính diện tích kênh, rạch là 6660 cây/ha với cự ly 1×1,5m hoặc 10000 cây/ha, cự ly 1x1m và có thể trồng tới 20000 cây/ha, cự ly 1×0,5m. Đào hố với kích thước 30x30x30 cm hoặc 40x40x 40cm.

Trồng dặm cây chết sau khi trồng 20-30 ngày. Sau 6 tháng chăm sóc lần 1, sau 12 tháng chăm sóc lần 2. Nội dung chăm sóc gồm phát dọn cỏ dại, xới đất và vun gốc cây. Năm thứ 2 phát cỏ, vun xới gốc và tỉa cành thấp. Năm thứ 3 vun xới gốc và chặt tỉa cành thúc đẩy sinh trưởng.

Áp dụng tiêu chuẩn ngành 04TCN-88-2006 – quy phạm kỹ thuật phòng cháy, chữa cháy rừng tràm của Bộ NN&PTNT để phòng chống cháy một cách tích cực.

Tràm ta là cây gỗ đa mục đích. Gỗ nặng có tỷ trọng 0,75, dễ cưa xẻ, chịu lực cao nên được dùng làm giàn giáo trong xây dựng, làm dụng cụ gia đình, đặc biệt làm cọc cừ để xử lý móng nhà, ngoài ra củi tràm được ưa chuộng do nhiệt lượng cao, cháy đượm. Gỗ có thể làm giấy, dăm, than hoạt tính.

Lá Tràm ta chứa 0,7% tinh dầu được dùng chế dầu khuynh diệp,… Rừng tràm có nhiều hoa thơm và ra hoa gần quanh năm nên nuôi ong rất hiệu quả. Có thể kết hợp nuôi cá dưới rừng tràm và là nơi tụ họp tạo sân chim nổi tiếng có giá trị cảnh quan du lịch và môi trường sinh thái. Rừng tràm có tác dụng cải tạo đất, chống quá trình phèn hoá.

Khi rừng được 8-10 tuổi có thể khai thác bán làm gỗ cừ, dùng phương pháp đốt trước có điều khiển chừa lại 2000-4000 cây phân bố đều/ha có thể xúc tiến tái sinh tự nhiên luân kỳ 2 mà không cần phải trồng lại cho các rừng tràm trồng ở vùng Tứ giác Long Xuyên.

Ngoài ra đến tuổi 10-12 có thể tỉa thưa tầng dưới với cường độ mạnh để lấy gỗ nhỏ làm gỗ giấy, gỗ dăm, gỗ cừ,… để lại 300-400 cây to nhất/ha tiếp tục nuôi dưỡng để kinh doanh gỗ xẻ.

Mô hình Tràm ta trồng trên đất phèn nặng, mức nước ngập hàng năm sâu 50 cm, kéo dài 4-5 tháng ở Lâm trường Vĩnh Điền – Hà Tiên – Kiên Giang. Trồng giống tràm địa phương, cây con rễ trần 18 tháng tuổi, cao 1,2m, đường kính cổ rễ 0,4 cm, mật độ 10000 cây/ha, cự ly 1x1m. Trồng tháng 10/1992. Kết quả nơi có biện pháp tổng hợp lên líp, bón phân, làm cỏ rừng sinh trưởng tốt hơn hẳn so với nơi chỉ áp dụng các biện pháp riêng rẽ.

Nguồn: nghenong.com

Kỹ Thuật Trồng Cải Ngọt Cao Sản

Kỹ thuật trồng Cải Ngọt Cao SảnCải ngọt là một trong những cây rau dễ trồng, nhanh cho thu hoạch, chỉ từ 25 đến 30 ngày, có thể trồng được nhiều vụ trong năm, do đó sản lượng thu hoạch trên một đơn vị diện tích rất lớn; chi phí đầu tư rất thấp mà lợi nhuận lại rất cao, việc tiêu thụ khá dễ dàng, được người tiêu dùng ưa chuộng nên đây là loại rau được bà con nông dân trồng nhiều, đặc biệt là trong vụ đông xuân.

1. Chọn đất và làm đất: – Chọn vùng đất cao ráo, loại đất cát pha hoặc thịt nhẹ có cấu tượng tơi xốp, giàu mùn, dễ thoát nước để trồng. – Đất được cày bừa kỹ, nhặt sạch cỏ, để khô nỏ và đập nhỏ rồi lên luống. – Tránh để đất to khi gieo hạt sẽ khó nẩy mầm và cây phát triển kém. – Luống trồng cải thích hợp có chiều rộng khoảng 1m, lên luống cao 20cm, mùa mưa có thể cao 25cm, rãnh luống rộng 30cm để dễ thoát nước, tránh úng ngập. – Mỗi sào Bắc bộ (360 m2) cần bón lót khoảng 300-500 kg phân chuồng hoai mục, nếu không có phân chuồng có thể dùng 15-20 kg phân vi sinh loại đảm bảo chất lượng. – Sau khi đã bón lót phân chuồng đều khắp trên mặt luống, ta dùng đất bột lấp lại một lớp mỏng để đến khi gieo hạt giống không bị tiếp xúc trực tiếp với phân dễ ảnh hưởng đến sự nẩy mầm và sinh trưởng của cây sau này. 2. Gieo hạt và chăm sóc: – Hạt giống cải ngọt hiện được bán rộng rãi ở các cửa hàng kinh doanh hạt giống rau ở các địa phương. Hạt giống được đóng gói trong bao bì nilon có in cách gieo trồng, chăm sóc, với lượng giống từ 50g đến 100g/túi, rất thuận tiện cho bà con nông dân. – Khi gieo hạt cần gieo thành từng nắm nhỏ và gieo đi, gieo lại vài lần cho đều. – Lượng hạt giống cần gieo cho mỗi sào Bắc bộ là từ 200-250g. – Sau khi gieo xong cần phủ lên mặt luống một lớp tro bếp vừa giữ ẩm, vừa tránh kiến tha hạt. Tiếp theo ta phủ một lớp rơm rạ đã được phơi khô, cắt dài khoảng 5cm để giữ ẩm cho hạt, tránh xô hạt khi ta tưới sau này và nhằm hạn chế cỏ dại phát triển. – Tưới nhẹ và giữ cho mặt luống luôn đủ ẩm thường xuyên cho hạt nhanh nẩy mầm và cây nhanh phát triển. – Sau khi gieo hạt khoảng 10 ngày cây có chiều cao từ 10-15cm. Cải ngọt là cây chứa lượng nước rất cao nên càng đủ nước cây càng tươi tốt, nhanh lớn, thân lá căng, mọng, chất lượng cao. Giai đoạn này cây đã được 10 ngày tuổi, đến lúc thu hoạch chỉ còn 15-20 ngày nữa ta cần kiểm tra ruộng cải xem cây có phát triển đều không. – Nếu dầy quá hoặc xuất hiện những cây bị sâu bệnh thì tỉa bớt. Nếu có sâu cuốn lá xuất hiện thì có thể phun thuốc trừ sâu vi sinh. Nếu thời tiết hanh khô nên tưới nước 2 lần/ngày, còn trời mưa thì 4 ngày tưới/lần. – Việc bón thúc giai đoạn này cũng nên dùng phân vi sinh hòa loãng và tưới vào gốc, không nên tưới lên lá. Ba ngày tưới phân loãng một lần và ngừng tưới phân, phun thuốc trước khi thu hoạch 1 tuần. 3. Thu hoạch: – Khi ruộng cải đã được khoảng 30 ngày tuổi, các cây phát triển căng, mọng, cây đạt từ 35-40cm, thì cũng là lúc ta có thể thu hoạch. – Dùng dao cắt bỏ phần gốc, phơi cải dưới nắng nhẹ trước khi bó khoảng 1-2 giờ cho cây bay bớt hơi nước tránh dập, gẫy khi vận chuyển đi xa. – Với cây cải ngọt từ khi gieo đến lúc thu hoạch trong khoảng 30 ngày, nếu chăm sóc tốt ta có thể thu hoạch được từ 600 đến 800 kg thậm chí tới 1 tấn/sào Bắc bộ. Theo báo NNVN

Kĩ Thuật Trồng Rừng Tràm

Kĩ thuật trồng rừng tràm

I. Các xuất xứ của cây tràm:

Cây tràm có nhiều loài và trong một loài lại có nhiều xuất xứ khác nhau. Ở những loài khác nhau và những xuất xứ khác nhau thì khả năng sinh trưởng, khả năng chống chịu các tác nhân gây hại như sâu bệnh và chuột cũng rất khác nhau. Vì thế, việc chọn loài cũng là một nhân tố quan trọng trong công việc trồng rừng.

Theo một số kết quả nghiên cứu và thực nghiệm đã được công bố. Chọn các loài tràm có các xuất xứ như sau để trồng rừng:

* Đối với loài tràm bản địa có tên khoa học là Melaleuca cajuputi (còn gọi tràm ta) nên chọn một trong những xuất xứ sau:

+ Xuất xứ Vĩnh Hưng, Mộc Hóa của tỉnh Long An

+ Xuất xứ Tịnh Biên của tỉnh An Giang

Nhìn chung, các xuất xứ vưà nêu trên của loài Tràm ta đều sinh trưởng kém hơn các giống tràm nhập nội. Tuy nhiên, vì có nguồn gốc bản địa nên cây tràm ta có khả năng chống chịu các tác nhân gây hại đến cây tốt hơn.

* Đối với tràm nhập nội (còn gọi là tràm Úc), hiện 2 loại: Melaleuca leucadendra và Melaleuca viridiflora và cả 2 loài này cũng có nhiều xuất xứ.

+ Tràm Melaleuca leucadendra có khả năng sinh trưởng rất nhanh, đặc biệt là với các xuất xứ Bensbach và PNG. Tuy nhiên, các giống tràm nhập nội này thường bị các tác nhân gây hại tấn công như sâu ăn chồi, sâu đục thân và chuột phá hại.

+ Tràm Melaleuca viridiflora, có khả năng sinh trưởng tốt, chỉ sau loài Melaleuca leucadendra. Do ít bị sâu cắn chồi và ít bị chuột cắn phá hơn Melaleuca leucadendra, nên cũng có thể xem loài này có triển vọng phát triển như là một cây trồng rừng tốt.

Về thời gian khai thác tràm để làm cừ thì đối với tràm Úc khoảng 5 – 6 năm, tràm ta thì từ  7 –10 năm (phụ thuộc vào mức độ đầu tư).

II. Kỹ thuật trồng rừng tràm:

2.1/ Kỹ thuật xử lý thực bì và làm đất:

Thực bì có thể chia làm 2 loại: 

+ Loại 1: thành phần thảm thực vật chủ yếu là cỏ năng, cỏ ống, cỏ mồm, cỏ bàng. Những loài cỏ này thường mọc trên đất thấp, có thời gian ngập nước dài.

+ Loại 2: Thành phần chủ yếu là đưng, cây mua, tràm gió, dây chọi và một số dây leo cây bụi khác. Chúng thuờng mọc dày hoặc mọc từng đám và trên đất cao có thời gian ngập nước ngắn.

Cách phân biệt loại thực bì như trên giúp ta quyết định khâu làm đất: như đối với thực bì loại 1 thì có thể xử lý hoặc không xứ lý, nhưng đối với thực bì loại 2 thì nên xử ly trước khi làm đất. Về xử lý thực bì có 3 cách làm như sau:

Thủ công:  phát dọn toàn diện cỏ dại và cây bụi, gom lại thành đống và đốt. Tiến hành đốt vào lúc sáng sớm hoặc cuối buổi chiều. Trước khi đốt cần phải làm ranh cản lửa và đốt từ cuối hướng gió. Công việc phát dọn này nên tiến hành vào đầu mùa khô, khoảng tháng 2 – 3.

Xử lý băng cơ giới: Có thể sử dụng máy kéo có bánh lồng  trục đất vào mùa nước rút khi mực nước ngập ngoài hiện trường còn khoảng 0,4 – 0,6m để nhấn chìm thực bì trong đất. Sau khi loại bỏ thực bì, các loại cỏ rác trôi nổi trên mặt nước cần phải được thu dọn và gom lại để dọc bờ bao của lô trồng rừng.

Kết hợp thủ công và cơ giới: Sau khi phát đốt thực bì, thì sử dụng máy cày để cày lật đất từ 1 – 2 lần vào tháng 4 – 5.

Làm đất: Có 2 cách  làm đất, lên líp nhẹ hoặc không lên líp:

Lên líp nhẹ: tạo líp rộng 4 m, cao từ 0, 2m – 0,3m, mương rộng tối đa 1,3m, có thể lên líp bằng thủ công hoặc bằng cơ giới tùy theo điều kiện sẵn có.

Không lên líp:  tận dụng mặt đất tự nhiên, nhưng phải tạo hệ thống rãnh thoát nước có độ sâu 0,5m và chiều rộng 1,5m, các rãnh mương phải cách nhau từ 10 – 15 m. Mục đích của các mương này là để rửa phèn trong đất giúp cây sinh trưởng tốt.

2.2/ Kỹ Thuật Trồng và chăm sóc:

2.2.1/ Mùa trồng rừng:

Đối với cây con có túi bầu: Mùa trồng rừng phù hợp là tháng 5 – 6, hoặc tháng 11  – 12.

Đối với những cây rễ trần. Mùa trồng rừng thích hợp là vào đầu mùa lũ (trong tháng 6 – 7) hoặc là vào cuối mùa lũ (tháng 11 – 12). Trường hợp trồng sau mùa lũ, cần phải nhổ cây con khỏi vườn ươm và giâm cây trong nước sạch 7 – 10 ngày trước khi trồng để cây ra rễ con.

Ở những vùng không bị ảnh hưởng của mùa lũ thì thời vụ trồng rừng phù hợp nhất cho cả 2 cách trồng trên là vào đầu mùa mưa.

2.2.2/ Mật độ trồng:

Đối với tràm ta: Mật độ 30.000 cây – 40.000 cây/ha, tương ứng với cự ly 0,7 m x 0,5 m,hoặc 0,5 m x 0,5 m

Đối với tràm Úc: Mật độ tốt nhất là 15.000 cây hoặc 20.000 cây/ha, tương ứng với cự ly 1m x 0,7m,  hoặc 1m x 0,5 m.

2.2.3 Kỹ thuật trồng:

Trước khi trồng cần phải tạo lỗ có đường kính rộng 7 – 10cm, sâu 15- 20cm (dùng nọc hay bay để tạo lỗ) đối với vùng đất mềm. Còn những vùng đất khác thì nên đào hố kích thước 20 x 20 x20 cm, trồng xong phải giậm nhẹ xung quanh hố để cây đứng và rễ cây tiếp xúc với đất.

2.2.4 Chăm sóc:

Sau khi trồng 15 – 20 ngày, kiểm tra thấy tỷ lệ cây sống < 80%, thì phải tiến hành trồng dặm. 

Nếu trồng tràm để lấy gỗ thì không cần phải làm cỏ vun đất trong 2 – 3 năm đầu (do trồng dầy)

Khi rừng đã định hình (trên 3 năm), có thể phát dây leo, cây bụi, tỉa cành thấp tạo cho thân chính sinh trưởng.

* Phòng chống sâu bệnh 

+ Có khoảng 12 loài côn trùng gây hại chủ yếu cho cây, nhất là Xén tóc đục thân, nhóm sâu hại ngọn tràm non, sâu cuốn lá tràm. Ngoài việc trồng hỗn giao, chú ý chăm sóc để cây có sức đề kháng cao. 

+ Phòng chống chuột: ngoài rừng nên phát sạch cỏ, cây bụi, những nơi trú ngụ của chuột xung quanh rừng. Nên kết hợp các biện pháp: cơ học, hoá học, sinh học để phòng chống chuột.

Nguồn: TT KN quốc gia và Trung tâm khuyến nông TPHCM, KS. Đức Dũng

Quy trình kĩ thuật trồng rừng tràm (Melaleuca cajuputi)

Chương I: Điều khoản chung

Điều 1: Quy trình này được áp dụng cho trồng rừng Tràm thuần loài có nguồn gốc bản địa, với các xuất xứ Tràm ở Tịnh Biên (Tỉnh Kiên Gang), và các xuất xứ Tràm ở Vĩnh Hưng (tỉnh Long An). Quy trình này quy định hệ thống biện pháp kĩ thuật trồng rừng Tràm từ khâu thu hái chế biến bảo quản giống, chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ rừng trồng nhằm :

– Đảm bảo cho rừng trồng khép tán trong vòng 3-5 năm.

– Rừng trồng đạt lượng tăng trưởng bình quân 12- 15m3/ha/năm. Rừng vừa cung cấp gỗ, cừ, củi vừa phát huy tác dụng trong việc cải tạo đất phèn giữ nước ngọt, ngăn sóng, chắn gió, bảo vệ sản xuất nông nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho kinh doanh thủy sản, phát triển nghề nuôi ong.

Quy trình kỹ thuật trồng rừng Tràm này chỉ áp dụng ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long.

Chương II: Điều kiện gây trồng

Điều 2: Điều kiện khí hậu Trồng rừng Tràm ở vùng khí hậu nhiệt đới ẩm điển hình, không có mùa đông lạnh. Nhiệt độ trung bình năm 20oC, nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất trong năm 20oC. -Lượng mưa hàng năm 1500mm, có mùa khô rõ ràng từ tháng 1 đến tháng 4.

Điều 3: Điều kiện đất đai trồng rừng:

Rừng Tràm được trồng trên đất phù sa phèn (Thionic Fluvisols), trong đó có 3 loại đất phụ sau đây:

• Đất phù sa phèn tiềm tàng (Proto — Thonic — Gleysols) • Đất than bùn phèn tiềm tàng (Proto — Thonic — Gleysols) • Đất phù sa phèn hoạt động (Orthi — Thonic — Gleysols)

Phần I : trồng rừng

Chương III: Kỹ thuật thu hái, chế biến và bảo quản hạt giống

Điều 4: Chọn xuất xứ Tràm và thu hái hạt giống

– Lấy giống ở hai vùng Tịnh Biên (An Giang) và Vĩnh Hưng (Long An), là các xuất xứ Tràm tốt phù hợp cho việc phát triển cho vùng đồng bằng sông Cửu Long. – Chọn các lâm phần rừng Tràm lớn hơn hoạc bằng 8 tuổi, sinh trưởng tốt, không bị sâu bệnh . – Thời gian thu hái hạt: Vào tháng 11 và 12 trong năm. – Khi vỏ quả có mầu mốc trắng, mày và hạt phân biệt phải thu hái ngay (Nếu thu hái muộn nắp quả Tràm tự tách ra, và hạt sẽ rơi rụng hết). – Thu hái quả bằng các công cụ đơn giản như là cù nèo, cắt lấy cành Tràm có mang quả chín.

Điều 5: Cách chế biến hạt

Các quả Tràm được thu hái về cần loại bỏ cành, nhánh lá và sau đó vun quả thành đống rộng khoảng 1m2, cao 0,3-0,4cm. ủ quả trong 2 đến 3 ngày để quả chín đều. Mỗi ngày đảo quả lại một lần sau đó phơi dưới nắng nhẹ vào buổi sáng và buổi chiều để quả Tràm tự tách hạt. Thu lấy hạt sàng sẩy hạt sạch sẽ, loại bỏ các tạp chất rồi tiếp tục phơi hạt Tràm như trên thêm 2 đến 3 ngày nữa là được. Tránh phơi hạt nơi có gió thổi mạnh, gió sẽ cuốn bay mất hạt vì hạt Tràm rất nhỏ bé và nhẹ. 1kg hạt Tràm có khoảng 21-23 triệu hạt.

Điều 6: Phương pháp bảo quản hạt giống

Bảo quản hạt Tràm theo phương pháp bảo quản khô bằng cách cất vào trong các bình khô, đậy nắp kín. Thời gian bảo quản trong vòng từ 1 đến 2 năm. Nhưng tốt nhất nên gieo hạt Tràm đã bảo quản vào mùa mưa năm sau.

Chương IV: Kỹ thuật tạo cây con

Điều 7: Chuẩn bị đất để gieo hạt Tràm

– Đất để gieo hạt Tràm phải có điều kiện điều tiết được nước ra vào hợp lý và dễ dàng. – Đất không bị nhiễm mặn, (độ mặn <0,8%). – Nước được sử dụng để giữ ẩm cho khu đất gieo hạt không được đục do lẫn bùn, hoặc nước có màu đỏ đục (do bị lẫn nhiều các hợp chất hữu cơ hoà tan). – Khu đất được chọn để gieo hạt Tràm cần phải làm sạch cỏ, cày bừa kỹ. – Phải đảm bảo có nước luôn lấp xấp đều cho cả khu đất gieo hạt. – San mặt đất cho thật bằng phẳng, dể tạo điều kiện điều tiết nước ra vào, ngập lấp xấp đều trên toàn bộ khu đất gieo hạt.

Điều 8: Kỹ thuật gieo hạt Hạt Tràm trước khi gieo được trộn đều với tro bếp (hoặc cát mịn khô), theo tỷ lệ 1 phần hạt 2-3 phần tro bếp theo trọng lượng hạt. Gieo vãi dều trên toàn bộ khu đất đã chuẩn bị để gieo hạt. Sử dụng khoảng 2 lít hạt Tràm để gieo trên 1000m2 diện tích gieo ươm.. – Sau khi gieo hạt, cắt cỏ, rải thành một lớp mỏng, phủ kín trên mặt đất để tăng khả năng giữ ẩm cho đất và tạo ra môi trường không khí ẩm ướt sát mặt đất. – Sau khi gieo từ 7-10 ngày, hạt Tràm sẽ nảy mầm và ta có thể bỏ lớp cỏ phủ trên mặt đất. – Bảo đảm mật độ cây mạ khoảng 400-500 cây/m2 là tốt nhất.

Điều 9: Kỹ thuật chăm sóc cây con ở vườn ươm – Nuôi cây con ở vườn ươm khoảng 1 năm. – Cần luôn điều chỉnh mật độ cây con ở vườn ươm thích hợp trong quá trình sinh trưởng để cây con phát triển cân đối và khoẻ mạnh. Mật độ ban đầu 400-500 cây/m2. Đến thời gian xuất vườn, mật độ còn khoảng 100-150 cây/m2 là thích hợp. – Cần làm sạch cỏ dại cho cây con ở vườn ươm. – Nếu cây con sinh trưởng không được tốt chúng ta có thể bón thêm phân đạm và lân cho cây sinh trưởng khoẻ và tốt hơn.

Điều 10: Tiêu chuẩn cây con xuất vườn – Cây con có tuổi từ 10-12 tháng. – Chiều cao: 50-70cm. – Đường kính cổ rễ: 5-8mm. – Cây sinh trưởng khoẻ mạnh, không bị cụt ngọn, sâu bệnh và bộ rễ phát triển mạnh, rễ cái dài trên 6cm, không bị tổn thương.

Chương V: Kỹ thuật trồng rừng

Điều 11: Chọn đất trồng rừng

Tất cả các diện tích đất hoang hoá dễ bị nhiễm phèn (bao gồm các hạng đất Ia, Ib, IIa, IIb và III theo phụ lục) đều trồng được Tràm. Hạng đất Ib, IIa, IIb là các hạng đất trồng Tràm rất thích hợp và cho năng suất cao mục tiêu chủ yếu là trồng rừng kinh tế, phòng hộ là phụ. Các hạng đất Ia, III ít thích hợp hơn, năng suất thấp chỉ trồng với mục tiêu phòng hộ, cải tạo đất.

Điều 12: Phương pháp trồng rừng Căn cứ điều kiện lập địa từng nơi mà chọn 1 trong 2 phương pháp trồng sau đây: – Trồng rừng gieo hạt thẳng (sạ hạt). – Trồng rừng Tràm bằng cây con rễ trần.

Mục 1: Trồng rừng Tràm bằng phương pháp gieo hạt thẳng (sạ hạt)

Điều 13: Điều kiện áp dụng

– Đất gồm các hạng IIa, IIb, thực bì gồm các cỏ mờn, cỏ bông, đuôi chồn, cỏ lác, năng ngọt chiếm ưu thế. – Nước lưu thông, không bị đục, không bị thối.

Điều 14: Cách làm đất để sạ hạt

– Phát và đốt sạch thực bì. – Cày hai lần hoặc cày một lần trục hai lần. – Việc làm đất phải xong trong mùa khô và hoàn tất trước khi sạ hạt ít nhất 10 ngày.

Điều 15: Xác định thời điểm sạ hạt

– Vùng ngập nước do mưa: Chỉ sạ hạt khi mức nước đã ngập cao hơn mặt nước 20cm. – Vùng ngập do nước lũ: Sạ hạt khi nước nguồn đổ về ngập 15-50cm cao hơn mặt đất. Nếu mực nước cao hơn 50cm thì ngừng sạ hạt. Tiến hành sạ hạt lúc lặng gió, cường độ dòng chảy không đáng kể. Người thực hiện phải được hướng dẫn và luyện tập thành thạo.

Điều 16: Xử lý và sạ hạt Tràm

• Xử lý: – Cho hạt vào 2/3 bao, buộc chặt miệng bao và cho xuống nước ngâm 12 giờ liền sau đó vớt ra để cho ráo nước. – Trộn hạt với tro, trấu, cát một phần hạt với 5 phần chất độn. – Nếu dùng trấu thì phải ngâm trấu một tuần rồi vớt lên để cho ráo nước. • Lượng hạt sạ trên 1ha như sau: – Sạ để kết hợp tạo cây con nhổ đem trồng: 12-16kg hạt/ha. – Sạ chỉ để tạo rừng: 6-8kg hạt/ha.

Mục 2: Trồng rừng Tràm bằng cây con

Điều 17: Điều kiện để trồng rừng Tràm bằng cây con

– Các hạng đất Ia, Ib, III. – Những nơi nước thối, nước đục. – Những nơi có nhiều rong.

Điều 18: Xử lý thực bì

– Với cỏ năng, cỏ ống, cỏ mờn có chiều cao dưới 1m không phải phát dọn. – Đối với cây sậyphải phát sát gốc hoặc dùng máy cày cày lúc nước chưa ngập, sậy chưa ra hoa. – Với thực bì là cây bụi, dây leo thì phải phát đốt.

Điều 19: Bứng cây, tạo tầng lông hút.

– Cây con phải đủ tiêu chuẩn như quy định tại điều 10. – Bứng các cây Tràm con bằng xẻng để tránh làm tổn thương bộ rễ. Dầm gốc các cây Tràm con mới bứng dọc theo các bờ kênh mương dưới bóng mát, để bộ rễ của chúng được ngâm trong nước chảy. Nước chảy sẽ làm sạch đất. Tiếp tục ngâm cho tới khi cây Tràm con tạo ra được tầng lông hút mới màu trắng (thường gọi là rễ trắng) mới đem trồng. – Không được chất thành đống hoặc bỏ nằm trong nước.

Điều 20: Khi vận chuyển đi trồng phải đảm bảo

– Không xếp quá chặt đảm bảo thoáng khí. – Trát bùn hoặc thân cỏ mục bao quanh từng bó rễ. Không để rễ bị khô. – Tránh dẫm đạp làm tỏn thương rế.

Điều 21: Mật độ thời vụ trồng

• Mật độ – Trồng mật độ 10.000 cây/ha ở nhóm đất thích hợp (Cự ly 1m x 1m) – Trên nhóm đất có nhiều hạn chế trồng mật độ 20.000 cây/ha (Cự ly 1m x 0,5m) • Thời vụ – Trồng Tàm tốt nhất vào tháng 7 đến thánh 9 dương lịch. Có thể kéo dài đến tháng 12. – Tuỳ điều kiện từng địa phương mà xác định thời điểm bắt đầu và kết thúc căn cứ vào các tiêu chuẩn sau: + Mức nước ngập khi trồng không vượt quá đọt cây trồng. + Hoàn thành trước khi nước rút cạn ít nhất 15 ngày. Những nơi có nước thối tràn qua phải trồng xong 20 ngày trước khi nước thối đổ về hoặc sau nước thối rút hết.

Điều 22: Trồng Tràm bằng công cụ đơn giản có tên là “nọc”, đó là một chiếc gậy bằng gỗ có đường kính 4-5cm, một đầu nhọn. Dùng nọc soi một lỗ xuống đất, với độ sâu 25-30cm, cách lớp mặt đất trong điều kiện đất bị ngập nước. Sau đó, đặt cây Tàm con xuống, để bộ rễ đứng vào lỗ, hơi kéo cây lên một chút để cho rễ cây Tràm không bị cong hoặc bị gẫy trong khi trồng. Nén chặt đất xung quanh gốc Tràm bằng chân.

Điều 23: Phương thức trồng

– Trồng thuần loại bằng cây con rễ trần. – Trồng Tràm nông lâm kết hợp. ở những nơi có điều kiện, thực hiện trồng rừng Tràm xen lúa (giống lúa địa phương tài nguyên, cây cao, chịu phèn), trong 2 hoặc 3 năm đầu, khi rừng Tràm chưa khép tán, để giảm bớt khâu chăm sóc và bảo vệ tốt rừng Tràm. – Trồng Tràm theo phương thức nông-lâm-ngư kết hợp (Tràm, Lúa nước, Cá, Ong mật).

Điều 24: Nghiệm thu rừng trồng

– Rừng Tràm trồng sau 3 tháng sẽ tiến hành nghiệm thu. – Tỷ lệ cây sống phải đạt trên 85% tổng số cây so với mật độ thiết kế quy định. – Cây sinh trưởng và phát triển tốt.

Chương VI: Chăm sóc và nghiệm thu rừng Tràm.

Điều 25: Đối với rừng trồng bằng phương pháp sạ hạt thẳng tiến hành chăm sóc hai năm liền

• Năm thứ nhất: – Ngăn chặn hoạt động của ngưới và gia súc làm đục nước. Không được lội ngang qua khu vực sạ hạt. – Vùng có nước lũ khi nước rút dùng phạng phát ngọn cỏ mới mọc cách mặt đất 20 đến 30cm cao hơn Tràm con mới mọc. – Cố gắng xây dựng một số mương cần thiết và đào một số ãnh nông (rộng 40, sâu 40cm) trong rừng Tràm nhằm lợi dụng nước đầu mùa để thau chua, rửa mặn cho đất trồng Tràm. – ở các vùng trồng rừng Tràm ven biển, Nếu nước ra vào rừng Tràm sau khi trồng bị nhiễm mặn trong mùa khô, cần phải đóng toàn bộ các cửa cống thông với các hệ thống sông ngòi để ngăn chặn nước mặn xâm nhập vào các khu rừng Tràm dưới 4 tuổi. • Năm thứ hai: Dặm cây con ở những nơi Tràm mọc quá thưa và tỉa bớt ở những nơi quá dày đảm bảo trên 1m2 có khoảng 4-5 cây.

Điều 26: Chăm sóc đối với rừng trồng bằng cây con

• Năm thứ nhất: Sau khi trồng cấm người đi lại hoặc bơi xuồng qua khu vực trồng. • Năm thứ 2: Những lô trồng tỷ lệ cây chết dưới 20% tiến hành dặm ở những chỗ không có cây từ 3m2 trở lên. Những nơi tỷ lệ cây chết 20-50% trồng dặm toàn diện đảm bảo số cây phân bố tương đối đều trên diện tích. Nếu tỷ lệ chết trên 50% phải trồng lại.

Điều 27: Chống cháy bảo vệ rừng Tràm trong mùa khô

– Mùa cháy rừng Tràm bắt đầu từ giữa mùa khô (tháng 2) đến hết mùa khô. Thời gian nguy hiểm dễ cháy rừng nhất là vào cuối mùa khô, từ tháng 3-4. Trong thời gian này cần quản lý chặt chẽ những người dùng lửa vào rừng Tràm để lấy mật ong, hoặc đốt cỏ để săn bắt rắn, trăn, rùa…. – Thiết kế một số kênh mương, bờ bao, các cửa cống lấy nước và tháo nước. Để giữu độ ẩm cho đất và thảm mục dưới rừng Tràm trong mùa khô, nhằm hạn chế sự bắt lửa, giữ nước ém phèn và có để nước để dễ dàng dập tắt các đám cháy mới phát sinh trong rừng Tràm. Nhưng không nên để đất dưới rừng Tràm quanh năm ngập nước.

Viện Nghiên cứu và Phát triển Lâm nghiệp Nhiệt đới, 14/10/2010