Kỹ Thuật Trồng Chăm Sóc Cây Vải / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Duhocaustralia.edu.vn

Kỹ Thuật Trồng Và Chăm Sóc Cây Bông Vải

2. Chọn giống kháng

Giống được sử dụng là VN 01-2 kháng sâu miệng nhai, kháng rầy khá.

3. Lùi thời vụ

Thông thường bông vải ở nước ta có hai thời vụ trồng đó là vụ mưa (còn gọi là vụ Mùa) và vụ khô (còn gọi là vụ Đông Xuân). Tuy nhiên mỗi vùng có điều kiện khí hậu, đất đai khác nhau, nên thời vụ trồng cũng khác nhau. Ở Đồng Nai và Bình Phước thời vụ gieo từ 15/7 -30/7 cho năng suất cao nhất, tuy nhiên khi bông nở thường gặp mưa vào cuối vụ làm cho chất lượng bông giảm sút và khó thu hoạch, phơi phong, bảo quản. Cho nên thời vụ gieo bông vụ mùa được khuyến cáo từ 01/8 – 20/8 dương lịch (lùi lại so với trước đây từ 15 -30 ngày), nhưng khi trồng bông vào thời điểm này lại có vấn đề khác nảy sinh: chất lượng bông tăng nhưng lại bị khô hạn vào cuối vụ làm cho cây bông bị rụng nụ hoa và quả non. Để giải quyết vấn đề này thì Một loạt các giải pháp được đề ra được đề ra là tăng mật độ gieo trồng hợp lý, phủ bổi cho bông, bón phân lót Cotttofer, phun phân bón lá KNO3, phun chất điều tiết sinh trưởng Pix, bấm ngọn sớm, tưới nước bổ sung, …

4. Mật độ và khoảng cách gieo

– Mật độ gieo trung bình: 55.000 – 60.000 cây/ha

– Khoảng cách:

+ Trồng bông hàng đơn : 0,7m x 0.25m x 1 cây/hốc

+ Trồng bông hàng kép: 0,4m x 1m x 0,25m x 1 cây/hốc

Với khoảng cách gieo như trên thì mật độ đạt B/Q 57.000 cây/ha.

Lưu ý:

– Đối với đất xấu và thời vụ gieo trồng càng muộn thì mật độ gieo phải càng cao.

– Khi gieo bông ở mật độ cao và bón nhiều phân đạm sẽ làm cho cây bông mất cân đối, cành lá rậm rạp. Điều nàylà không tốt do cây bông phát triển thiên về sinh trưởng dinh dưỡng, trong khi đó chúng ta mong muốn cây bông cho nhiều quả để đạt năng suất cao. Để khắc phục hiện tượng này chúng ta có thể sử dụng chất điều tiềt sinh trưởng Pix để phun cho cây bông.

5. Phân bón chất điều hoà sinh trưởng (Pix)

– Bón lót: Việc bón phân trước khi gieo bông là rất cần thiết và là một tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt có hiệu quả đối với vùng đất xấu và cây trồng trước không phải là cây họ đậu.

Công thức bón phân là 120-90-90 ( 2:1,5:1,5) , Làm cỏ và bón thúc 2 lần vào các giai đoạn 20 và 50 ngày sau gieo (Số lượng và chủng loại phân bón xin xem phần phụ lục).

– Phun KNO3 cuối vụ 2 lần, mỗi llần cách nhau 7 – 10 ngày.

– Dùng chất điều hoà sinh trưởng Pix phun cho cây bông vào 3 giai đoạn 25, 35 và 55 ngày sau gieo, với liều lượng 300ml/1ha/vụ và được chia làm 3 lần phun là (50ml, 100ml và 150ml), để giúp cây bông phát triển cân đối, tăng khả năng quang hợp và chịu hạn.

6. Chăm sóc – làm cỏ – xới xáo

Chăm sóc thời kỳ cây con là rất quan trọng, cây khỏe sẽ cho năng suất cao. Khi cây bông đạt 15 ngày sau gieo cần phải xới xáo nhẹ xung quanh gốc, nhằm phá váng tạo độ thoáng cho bộ rễ phát triển và trừ cỏ dại lấn át khi cây bông còn nhỏ.

Thời kỳ ra nụ cần tiến hành xới sâu để xúc tiến bộ rễ ăn sâu, độ sâu xới từ 10 – 15 cm. Đồng thời kết hợp vun đất vào gốc cây nhằm chống đổ.

Khi bông đã ra hoa, bộ rễ đã phát triển khá mạnh, lúc này không nên xới sâu làm tổn thương rễ. Chỉ nên xới nhẹ sau mưa hoặc sau khi tưới, đồng thời vun cao vào gốc để tránh cây bị đổ ngã.

7. Bấm ngọn

Bấm ngọn thân chính và bấm đầu cành là kỹ thuật quan trọng trong toàn bộ kỹ thuật chỉnh cành. Bấm đúng lúc sẽ hạnchế ưu thế phát triển về phía ngọn, làm cho nụ nhiều, quả nặng hơn, hạn chế chiều cao cây, và chín sớm.

Việc bấm ngọn bông phụ thuộc độ phì đất, chế độ chăm sóc, khí hậu, giống… Nên bấm ngọn vào thời kỳ cây bông đã có khoảng 8 – 10 cành quả (70 – 80 ngày tuổi).

8. Tưới tiêu – Chống hạn cuối vụ

Bông là cây rất cần nước, nhưng không chịu úng, để đạt năng suất cao, phẩm chất tốt cần chú ý:

Về mùa khô, tưới định kỳ 10 – 15 ngày/lần.Về mùa mưa, phải chủ động tiêu nước, bông vải rất sợ bị úng nước dù chỉ trong thời gian ngắn.

Chống hạn cho cây vào cuối vụ:– Dùng chế phẩm tăng sự cứng cáp của cây ( Pix )– Sử dụng phân bón lá KNO3 (gồm N và K hàm lượng cao khoảng 40% ) để tăng khả năng đậu quả cho cây bông .– Phủ đất bằng xác bả thực vật như thân bắp, rơm rạ,…– Dùng phân hữu cơ khoáng giữ ẩm (Cottofer) do Công ty CP bông vải & kinh doanh tổng hợp Miền Đông sản xuất để chống hạn cho cây bông: Thành phần bao gồm phân hữu cơ hoá sinh, NPK và chế phẩm đẳng trương AMS có tác dụng hấp thu nước trong mùa mưa và khi mùa khô đến sẽ giải phóng nước trở lại cho cây hút.

Với phương pháp chống hạn trên, có thể duy trì khả năng chịu hạn của cây bông trong vòng 10-15 ngày mà không ảnh hưởng đến năng suất hay chất lượng của cây bông.

9. Phòng trừ sâu bệnh hại bông

* Bệnh hại bông:– Phòng trừ bệnh đóm lá sò giai đoạn cây con: Dùng Monceren với liều lượng 0,3 lít/ha, kết hợp với Mospilan (0,3 lít/ha) vào thời điểm 7 ngày sau gieo để trừ bệnh cây con và trừ trừ rệp đầu vụ nhằm hạn chế bệnh xanh lùn.– Phòng trừ bệnh mốc trắng và đóm cháy lá cuối vụ: Dùng An vil với liều lượng 1 lít/ha vào gia đoan cuối vụ kết hợp với việc phun Pix lần 3 để giảm công lao động.– Phòng trừ Rầy xanh: Sử dụng giống kháng rầy (VN01-2) kết hợp phun thuốc Oshin khi thấy rìa lá bông bị biến dạng hoặc khi có từ 1,5 – 2 rầy/lá,

10. Thu hoạch – Phân loại bông hạt

Đặc điểm nở quả và tình hình thời tiết lúc thu hoạch: Cây bông từ lúc gieo đến khi quả đầu tiên nở thường mất 100 – 115 ngày. Giống như trình tự nở hoa, đậu quả, quả bông chín từ cành dưới lên và từ trong ra ngoài. Thời kỳ đầu do đặc tính của cây và khí hậu còn ẩm do mưa, tốc độ nở quả thường chậm hơn một chút. Đợt thu hái đầu tiên khi cây có 2 – 3 quả nở và cách quả đầu tiên nở từ 10 – 15 ngày, những đợt sau chỉ cách đợt trước khoảng 7 – 8 ngày.

Khi hết mưa, nắng nhiều, nhiệt độ cao, gió lớn bông chín nhanh hơn.

– Những sai sót thường gặp khi thu hoạch bông hạt+ Thu bông chưa nở đầy đủ: Bông nở đầy đủ là những quả bông có các múi bông bung, xốp, toàn bộ bông phủ kín quả. Quả chưa chín đủ múi bông chưa bung, còn ở dạng múi cau, vỏ quả đang còn tươi, màu xanh. Những quả bông chưa nở hết thường xơ, hạt có độ ẩm cao, nếu không phơi kịp thì dễ bị mốc, làm giảm chất lượng.+ Thu lẫn bông múi cau, bông vàng ố, bông đen: Khi quả chín gặp mưa, bông sẽ bị thối dẫn đến múi bông không thu được, hạt bị thối lép, hoặc do ẩm nên bông bị mốc. Những loại bông này không được thu để chung với loại bông tốt vì nó sẽ làm giảm phẩm cấp bông hạt, nên để riêng.

Những điều cần lưu ý khi thu hoạch bông

– Không để lẫn lá, tai quả, đất vào bông: Khi thu hái không cẩn thận, dễ bị dính đất, lá khô, tai quả vào bông hạt, nhất là thu hái về buổi trưa nắng, chiều, tai lá khô và giòn.– Không để lẫn vật lạ, nhất là sợi nylon: Khi để lẫn sợi nylon (dây PP) vào bông sẽ gây khó khăn lớn cho công đoạn nhuộm màu công nghiệp, đây là vấn đề hết sức cẩn trọng vì ảnh hưởng rất lớn đến phẩm cấp.

Kỹ Thuật Chăm Sóc Cây Vải Sau Thu Hoạch

Ngày đăng:18-06-2013 (283 lượt xem )

Cây vải ngay sau khi thu hoạch cần được chăm sóc tốt thì mới đảm bảo vụ sau cho năng suất cao và tránh hiện tượng ra quả cách năm. Các biện pháp kỹ thuật chủ yếu cần thực hiện ngay sau thu hoạch là đốn tỉa cành, bón phân phục hồi và quản lý sâu, bệnh hại để bảo vệ cành lộc.

1. Đốn tỉa cành

Đây là biện pháp kỹ thuật hết sức quan trọng, là yếu tố quyết định đến năng suất, chất lượng quả vải thiều. Việc đốn, tỉa cành nhằm làm sao vừa giữ cho cây phát triển đều tán, vừa tầm với, dễ chăm sóc và thu hoạch. Công việc này phải được thực hiện ngay sau thu hoạch càng sớm càng tốt và phải thực hiện trước khi cây vải ra lộc với một số thao tác kỹ thuật cụ thể như sau:

Đối với những cây các năm trước đã được đốn tỉa đúng kỹ thuật, dùng dao phát toàn bộ mặt tán, vị trí phát cách vết đốn năm trước khoảng 8 – 10cm. Với những vườn chưa được đốn đau ở năm trước hoặc vườn vải đã khép tán thì tiến hành đốn sâu vào bề mặt tán ở vị trí cành có đường kính từ 1 – 2cm để vừa định hình cành mẹ và giảm độ cao của tán, thuận lợi cho việc chăm sóc sau này.

Đốn tạo tán hình mâm xôi sau đó tỉa bỏ những cành mọc xiên xẹo và một số cành khung mọc thẳng đứng ở giữa tán để đảm bảo cây vải có bộ tán thông thoáng, hạn chế sâu bệnh hại. Tỉa bỏ bớt những cành phía trong tán cho thông thoáng đồng thời tỉa bớt một số cành nhỏ ở bề mặt tán. Biện pháp này nhằm mục đích định hình các cành mẹ, chỉ để đủ số lượng và phân bố đều trên bề mặt tán.

Sau khi đợt lộc đầu thành thục phải tiến hành tỉa định cành. Thông thường ở mỗi đầu cành mẹ sẽ có từ 5 – 10 cành lộc, tùy theo đường kính cành mẹ và tình hình sinh trưởng của cành lộc mà tỉa để lại số cành lộc cho phù hợp. Với cành có đường kính dưới 1cm thì tại mỗi đầu cành chỉ để lại một cành lộc khỏe nhất; cành có đường kính từ 1 – 2cm thì để hai cành lộc hai bên theo hướng ngạnh trê. Với những cành lộc trong tán ta tỉa thưa hợp lý, không để rậm rạp quá. Công việc này mặc dù tốn nhiều công lao động nhưng nếu không thực hiện tốt thì số cành lộc quá nhiều, cành nhỏ và ảnh hưởng lớn đến năng suất.

Với cây vải khỏe, chăm sóc tốt sẽ ra được 3 đợt lộc, sau khi đợt thứ 3 là lộc thu đã thành thục vào cuối tháng 9 đến tháng 10 tiến hành cắt tỉa thêm 1 lần nữa, loại bỏ những cành tăm, cành gối nhau, cành bệnh, chuẩn bị cho cây vải sang giai đoạn phân hóa mầm hoa.

Chú ý: Sau khi đốn tỉa cành cần kết hợp vệ sinh làm cỏ, thu gom quả rụng và những cành vừa đốn đem đốt bỏ để giảm nguồn sâu, bệnh lây lan cho vụ sau.

2. Bón phân

Sau vụ quả, cây bị tiêu hao nhiều dinh dưỡng do quả lấy đi, do đó cần bón kịp thời để phục hồi dinh dưỡng cho cây. Mặt khác, đợt bón này còn thúc lộc thu phát triển mạnh và sung sức chuẩn bị làm cành quả cho năm sau. Lần bón này rất quan trọng, bón đạm là chủ yếu phối hợp với phân lân và kali, lượng đạm bón bằng 50% lượng đạm cả năm, tương tự lân bằng 50% và ka li bằng 20%. Cũng có thể thay thế đạm, lân, kali bằng phân tổng hợp có hàm lượng đạm và lân cao như NPK 16-16-8. Lần bón này nên kết hợp bón thêm phân hữu cơ (phân chuồng, phân hữu cơ vi sinh) để cải tạo đất và cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho cây.

Lượng phân khoáng bón cả năm cho cây có thể căn cứ vào tuổi cây, đường kính tán, năng suất thu hoạch, độ phì của đất và tình trạng sinh trưởng của cây để xác định lượng bón cho hợp lý. Thường hay căn cứ vào đường kính tán để xác định lượng phân bón.

Lượng phân khoáng bón hàng năm cho cây vải (g/cây):

Phương pháp bón: Đợt này cần bón sâu và bón kết hợp với phân hữu cơ nên đào các rạch dài 0,5-1,0 m , rộng 30-40 cm, sâu 20-25 cm, cách nhau 0.5-1,0m xung quanh theo hình chiếu của tán. Bón phân khoáng xuống dưới sau đó rải phân chuồng hoặc phân hữu cơ vi sinh lên trên sau đó lấp đất kín phân. Sau khi bón xong nếu đất khô thì tiến hành tưới nước cho cây.

Lưu ý đợt này nên bón sớm trong tháng 6, tháng 7 ngay sau khi thu hoạch, tránh bón muộn sẽ làm tăng nguy cơ ra lộc đông, ảnh hưởng tới năng suất quả năm sau.

3. Phòng trừ sâu bệnh

Giai đoạn này cây vải thường bị một số đối tượng côn trùng gây hại như nhện lông nhung, sâu đục gân lá, bọ xít, châu chấu hại lá và lộc non. Khi cành lộc dài từ 5 – 7cm, lá bắt đầu mở tiến hành phun thuốc trừ nhện lông nhung và sâu đục gân lá,… để bảo vệ lớp lộc này. Sử dụng thuốc Regent 80WG, Pegasus 500ND hoặc Sherpa 25EC pha theo chỉ dẫn trên bao bì để phun, phun 2 lần cách nhau 1 tuần đến 10 ngày.

ThS. Nguyễn Văn Thi

Kỹ Thuật Trồng Và Chăm Sóc Cây Vải Thiều Thanh Hà

1. Chuẩn bị đất và quản lý đất trồng

Đất được lên luống để dễ thoát nước chống ngập úng. Khi cần thiết phải xử lý các nguy cơ tiềm ẩn từ đất (dư lượng kim loại nặng, nitrate, xói mòn, ngập úng… ảnh hưởng đến cây trồng và sức khỏe người tiêu dùng), tổ chức và cá nhân SX phải được sự tư vấn của nhà chuyên môn và phải ghi chép, lưu trong hồ sơ các biện pháp xử lý.

Trong vùng sản xuất vải thiều Thanh Hà hạn chế chăn thả vật nuôi gây ô nhiễm nguồn đất, nước. Nếu bắt buộc phải chăn nuôi thì phải có chuồng trại và có biện pháp xử lý chất thải đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường và sản phẩm sau thu hoạch.

2. Mật độ – khoảng cách trồng

Tuỳ thuộc vào giống, độ màu mỡ của đất đai, điều kiện khí hậu cũng như khả năng thâm canh, mức độ đầu tư mà xác định mật độ trồng và khoảng cách trồng vải thiều Thanh Hà hợp lý. Khoảng cách trồng vải thích hợp là 7m x 7m hoặc 8m x 8m (mật độ 205 cây và 156 cây/ha).

Trong điều kiện thâm canh cao, có thể trồng với khoảng cách 3m x 4m hay 4m x 6m (mật độ 832 cây và 416 cây/ha) hoặc trồng với mật độ trên nhưng đến khi giao tán cách 1 cây chặt bỏ 1 cây còn lại khoảng cách 4m x 6m hay 6m x 8m (mật độ 416 cây và 208 cây/ha) để khai thác tiềm năng cho sản lượng cao trong những năm đầu của chu kỳ kinh doanh do mật độ cao mang lại.

Nguồn gốc: Xã Thanh Sơn – Huyện Thanh Hà – Tỉnh Hải Dương. Hiện ở đây vẫn còn cây vải tổ trên 180 năm, hàng năm cho năng suất ổn định 300 – 400kg, phẩm chất quả tốt.

Đặc điểm giống: Cây sinh trưởng tốt, tán cây hình bán cầu cân đối, lá có mầu xanh đậm. Chùm hoa nhỏ, hình cầu, cuống hoa có mầu vàng xanh. Quả hình cầu, khi chín có mầu đỏ tươi, gai thưa, ngắn. Trọng lượng quả trung bình 20,7g (45 – 55 quả/kg), tỷ lệ phần ăn được trung bình 75,0%, độ Brix 18 – 21%, thịt quả chắc, vị ngọt đậm, thơm. Năng suất trung bình cây 8 – 10 tuổi 55 kg/cây (8 – 10 tấn/ha). Đây là giống chín chính vụ, thời gian cho thu hoạch 5/6 – 25/6.

Giống vải thiều Thanh Hà phải có nguồn gốc rõ ràng, cơ sở nhân giống và sản xuất giống phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép.

Giống vải thiều Thanh Hà tự sản xuất phải có hồ sơ ghi lại đầy đủ các biện pháp xử lý cây giống, hóa chất sử dụng, thời gian, tên người xử lý và mục đích xử lý.

Trong trường hợp giống vải thiều Thanh Hà không tự sản xuất phải có hồ sơ ghi rõ tên và địa chỉ của tổ chức, cá nhân và thời gian cung cấp, số lượng, chủng loại, phương pháp xử lý giống

Cây giống trồng theo tiêu chuẩn ngành 10 TCN – 2001, cụ thể: cây giống nhân bằng phương pháp ghép được trồng trong túi bầu polietylen có kích thước tối thiểu: đường kính x chiều cao là 10 x 22cm. Cây giống phải có sức tiếp hợp tốt, cành ghép và gốc ghép phát triển đều nhau, phần vết ghép đã được tháo bỏ hoàn toàn dây ghép, có bộ rễ phát triển tốt, sinh trưởng khoẻ, không mang theo những loại sâu bệnh nguy hiểm, có đường kính gốc ghép cách mặt đất 2 cm là 0,8 – 1 cm, đường kính cành ghép từ 0,5 – 0,7cm, chiều dài cành ghép từ 30 – 40 cm và có từ 2 – 3 cành cấp 1 trở lên.

Cây vải thiều Thanh Hà có thể trồng được quanh năm, nhưng có 2 thời điểm trồng thích hợp nhất là vụ xuân tháng 2 – 4 và vụ thu tháng 8 – 10 dương lịch.

Đào hố trồng vải phải dựa trên nguyên tắc: đất xấu đào to, đất tốt đào nhỏ. Thông thường kích thước hố: dài x rộng x sâu là: 0,8cm x 0,80m x 0,6cm, vùng đồi đất xấu cần đào hố to hơn, kích thước tương ứng là: 1m x 1m x 0,8m.

Bón lót: cho 1 hố: 30-50 kg phân chuồng; 0,7-1,0 kg supe lân; 0,5 kg vôi bột.

Khi đào: để lớp đất mặt một bên, lớp đất dưới một bên. Lớp đất mặt trộn với toàn bộ lượng phân bón lót và lấp lên đến miệng hố, lớp đất dưới đáy xếp thành vồng xung quanh hố.

Công việc chuẩn bị hố trồng, bón lót được tiến hành trước khi trồng 1 tháng.

Khơi một hố nhỏ chính giữa hố đào, xé bỏ túi bầu và nhẹ nhàng đặt cây xuống hố, đặt bầu cây giống vào sao cho cổ rễ bằng hoặc thấp hơn mặt đất 2 – 3 cm, lấp đất và dùng tay nén chặt xung quanh gốc. Cắm cọc và dùng dây mềm buộc cố định cây để tránh gió lay đứt rễ.

Cần tủ gốc giữ ẩm cho cây sau khi trồng bằng rơm rạ hoặc cỏ khô rộng 0,8 – 1,0m; dày 7 – 15cm, cách gốc 5 – 10 cm.

Kỹ Thuật Trồng Cây Vải Thiều

Cây giống trồng theo tiêu chuẩn ngành 10 TCN – 2001, cụ thể: cây giống nhân bằng phương pháp ghép được trồng trong túi bầu polietylen có kích thước tối thiểu: đường kính x chiều cao là 10 x 22cm. Cây giống phải có sức tiếp hợp tốt, cành ghép và gốc ghép phát triển đều nhau, phần vết ghép đã được tháo bỏ hoàn toàn dây ghép, có bộ rễ phát triển tốt, sinh trưởng khoẻ, không mang theo những loại sâu bệnh nguy hiểm, có đường kính gốc ghép cách mặt đất 2 cm là 0,8 – 1 cm, đường kính cành ghép từ 0,5 – 0,7cm, chiều dài cành ghép từ 30 – 40 cm và có từ 2 – 3 cành cấp 1 trở lên.

2, Thời Vụ và Mật Độ Trồng:

Vải thiều có thể trồng được quanh năm, nhưng có 2 thời điểm trồng thích hợp nhất là vụ xuân tháng 2 – 4 và vụ thu tháng 8 – 10 dương lịch. Tuỳ thuộc vào giống, độ màu mỡ của đất đai, điều kiện khí hậu cũng như khả năng thâm canh, mức độ đầu tư mà xác định mật độ trồng và khoảng cách trồng vải thiều Thanh Hà hợp lý. Khoảng cách trồng vải thích hợp là 7m x 7m hoặc 8m x 8m (mật độ 205 cây và 156 cây/ha). Trong điều kiện thâm canh cao, có thể trồng với khoảng cách 3m x 4m hay 4m x 6m (mật độ 832 cây và 416 cây/ha) hoặc trồng với mật độ trên nhưng đến khi giao tán cách 1 cây chặt bỏ 1 cây còn lại khoảng cách 4m x 6m hay 6m x 8m (mật độ 416 cây và 208 cây/ha) để khai thác tiềm năng cho sản lượng cao trong những năm đầu của chu kỳ kinh doanh do mật độ cao mang lại.

3, Làm Đất Và Đào Hố Trồng:

Đất được lên luống để dễ thoát nước chống ngập úng. Khi cần thiết phải xử lý các nguy cơ tiềm ẩn từ đất (dư lượng kim loại nặng, nitrate, xói mòn, ngập úng… ảnh hưởng đến cây trồng và sức khỏe người tiêu dùng), tổ chức và cá nhân SX phải được sự tư vấn của nhà chuyên môn và phải ghi chép, lưu trong hồ sơ các biện pháp xử lý. Trong vùng sản xuất vải thiều Thanh Hà hạn chế chăn thả vật nuôi gây ô nhiễm nguồn đất, nước. Nếu bắt buộc phải chăn nuôi thì phải có chuồng trại và có biện pháp xử lý chất thải đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường và sản phẩm sau thu hoạch. – Đào hố trồng vải phải dựa trên nguyên tắc: đất xấu đào to, đất tốt đào nhỏ. Thông thường kích thước hố: dài x rộng x sâu là: 0,8cm x 0,80m x 0,6cm, vùng đồi đất xấu cần đào hố to hơn, kích thước tương ứng là: 1m x 1m x 0,8m.

Bón lót: cho 1 hố: 30-50 kg phân chuồng; 0,7-1,0 kg supe lân; 0,5 kg vôi bột. – Khi đào: để lớp đất mặt một bên, lớp đất dưới một bên. Lớp đất mặt trộn với toàn bộ lượng phân bón lót và lấp lên đến miệng hố, lớp đất dưới đáy xếp thành vồng xung quanh hố. Công việc chuẩn bị hố trồng, bón lót được tiến hành trước khi trồng 1 tháng.

5, Kỹ Thuật Trồng Cây Vải Thiều:

Khơi một hố nhỏ chính giữa hố đào, xé bỏ túi bầu và nhẹ nhàng đặt cây xuống hố, đặt bầu cây giống vào sao cho cổ rễ bằng hoặc thấp hơn mặt đất 2 – 3 cm, lấp đất và dùng tay nén chặt xung quanh gốc. Cắm cọc và dùng dây mềm buộc cố định cây để tránh gió lay đứt rễ. Cần tủ gốc giữ ẩm cho cây sau khi trồng bằng rơm rạ hoặc cỏ khô rộng 0,8 – 1,0m; dày 7 – 15cm, cách gốc 5 – 10 cm. Vào mùa nắng nên dùng rơm rạ, cỏ khô, thân cây đậu đỗ… để tủ gốc giữ ẩm cho cây. Ngoài việc giữ ẩm cho cây biện pháp này còn giúp hạn chế sự phát triển của cỏ dại.

6, Kỹ Thuật Chăm Sóc Cây Vải Thiều:

6.1 Kỹ thuật chăm sóc định kỳ:

Tưới nước: cần cung cấp đủ nước cho cây nhất là trong mùa khô, khi trái đang lớn và lúc quả sắp chín. Phòng trừ cỏ dại: Phủ gốc chè bằng cỏ, rác, cây phân xanh… để hạn chế cỏ dại; xới phá váng sau mỗi trận mưa to. Làm cỏ vụ xuân tháng 1-2 và vụ thu tháng 8-9, xới sạch toàn bộ diện tích một lần/vụ; một năm xới gốc 2-3 lần.

6.2 Kỹ thuật Cắt tỉa, tạo hình:

Cắt tỉa tạo hình cho vườn cây kiến thiết cơ bản: * Tạo cành cấp 1: Khi cây con đạt chiều cao 45 – 50 cm, cần bấm ngọn để tạo cành cấp 1. Chỉ để lại 3 – 4 cành cấp 1 phân bố tương đối đều về các hướng. Các cành cấp 1 này thường chọn cành khoẻ, ít cong queo, cách nhau 7 – 10cm trên thân chính và tạo với thân chính một góc xấp xỉ 450 – 600 để khung tán đều và thoáng. * Tạo cành cấp 2: Khi cành cấp 1 dài 25 – 30 cm, ta bấm ngọn để tạo cành cấp 2. Thông thường trên cành cấp 1 chỉ giữ lại 3 cành cấp 2 phân bố hợp lý về góc độ và hướng. * Tạo cành cấp 3: Cành cấp 3 là những cành tạo quả và mang quả cho những năm sau. Các cành này phải khống chế để chúng không giao nhau và sắp xếp theo các hướng khác nhau để cây quang hợp được tốt.

* Cắt tỉa hàng năm cho vườn vải thiều kinh doanh:

– Cắt tỉa vụ xuân: được tiến hành vào giữa tháng 2 đến giữa tháng 3; cắt bỏ những cành xuân chất lượng kém, cành mang sâu bệnh và những cành mọc lộn xộn trong tán, những chùm hoa nhỏ, thưa, mọc sâu trong tán, chùm hoa bị sâu bệnh. Với cây khoẻ mạnh, chăm sóc tốt thì có thể tỉa bỏ 20 – 30% số chùm hoa, những cây yếu cần tỉa bỏ nhiều hơn.

– Cắt tỉa vụ hè: được tiến hành giữa tháng 5 đến đầu tháng 6; cắt bỏ những cành hè mọc nhỏ, yếu, mọc quá xít nhau, chỉ để lại 1 – 2 cành khoẻ trên cành mẹ. Đồng thời với việc tỉa cành là cắt bỏ những chùm chùm quả nhỏ, sâu bệnh.

– Cắt tỉa vụ thu: được tiến hành sau khi thu quả vào cuối tháng 6 đến đầu tháng 7; tỉa bỏ các cành khô, cành sâu bệnh và các cành hè mọc quá dài. Khi lộc thu hình thành mọc dài khoảng 10 cm, tỉa bỏ những mầm yếu, mọc không hợp lý và chọn để lại 1 – 2 cành thu trên mỗi cành mẹ.

6.3 Kỹ thuật Bón phân Cho Cây Vải Thiều:

Giai đoạn kiến thiết cơ bản : Hàng năm cần bón thúc cho vải 3 – 4 đợt.

Đợt 1 vào tháng 2 để thúc đẩy ra cành mùa xuân; Đợt 2 vào tháng 5 để thúc đẩy ra cành mùa hè. Đợt 3 vào tháng 8 để thúc đẩy ra cành mùa thu. Đợt 4 vào vụ đông (tháng 11) bón supelân và kaliclorua tăng cường khả năng chống rét cho cây.

Trong thời kỳ này cứ cách 1 năm lại bón cơ bản cho cây thêm phân hữu cơ và vôi bột vào tháng 7 và tháng 8.

* Liều lượng bón: Lượng bón cho cây vải năm thứ nhất là: + Đạm U rê: 0,1 – 0,15 kg/ cây + Lân Supe: 0,3 – 0,5 kg/cây + Kalichlorua: 0,1 – 0,15 kg/cây. Chia đều cho các lần bón.

– Từ những năm sau lượng bón tăng 40 – 60% so với năm trước tuỳ thuộc vào tình hình sinh trưởng của cây. – Lượng bón cho năm bón cơ bản (cách 1 năm bón 1 năm) vào tháng 7 – 8 là:

+ Phân chuồng: 30 – 50 kg/ cây + Vôi bột: 0,3 – 0,5 kg/cây

* Phương pháp bón phân: + Hoà phân vô cơ với nước phân chuồng ủ kỹ để tưới cho cây cách gốc 15 – 20 cm. + Cuốc 3 – 4 hố sâu 5 – 7 cm xung quanh tán, bón phân rồi lấp đất. + Rắc xung quanh hình chiếu tán cách gốc 15 – 20cm khi trời có mưa rào hoặc tưới nước. + Giai đoạn kinh doanh: Từ năm thứ 3 trở đi:

– Lần 1: Bón giai đoạn đậu quả (phân quả xong, quả bằng hạt mây): 20% đạm urê + 35% Neb-26 + 100% NPK(16-16-8+13S) + 40% kaliclorua. – Lần 2: Bón thúc quả giúp quả phát triển nhanh, chống rụng quả (quả tạo cùi được 1/3 hạt): 13% đạm urê + 35% Neb-26 + 60% kaliclorua. – Lần 3: Bón sau khi thu hoạch quả xong 15 ngày, thúc ra lộc thu (thu hoạch xong, tỉa cành, tạo tán xong): 67% đạm urê + 0,6 ml Neb-26. (Đối với cây vải trên 15 năm tuổi bón: 3 kg Urê + 200 ml Neb-26 + 15 kg NPK (16-16-8+13S) + 10 kg kaliclorua/sào.

Bón làm 3 đợt: Đợt 1 quả bằng hạt mây bón 0,6 kgUre+0,7ml Neb-26+15 kgNPK+4 kg kali/sào; Đợt 2 quả tạo cùi bón 0,4kg Ure+0,7ml Neb-26+6kg kali/sào; Đợt 3 sau thu hoạch 15 ngày bón 2 kg Ure+0,7 kg Neb-26/sào.

* Cách bón: – Bón phân hữu cơ: đào rãnh xung quanh cây theo hình chiếu của tán với bề mặt rãnh rộng 20 – 30 cm, sâu 30 cm, rải phân, lấp đất và tưới nước giữ ẩm. Hoặc có thể đào 3 rãnh theo hình vành khăn xung quanh tán để bón, năm sau bón tiếp phần còn lại.

– Bón phân vô cơ: khi đất ẩm chỉ cần rải phân lên mặt đất theo hình chiếu của tán, sau đó tưới nước để hoà tan phân. Khi trời khô hạn cần hoà tan phân trong nước để tưới hoặc rải phân theo hình chiếu của tán, xới nhẹ đất và tưới.

7, Phòng Trừ Sâu Bệnh Cho Cây Vải Thiều:

Bọ xít nâu (Tessaratoma papillosa Drury): – Phòng trừ: + Vụ đông, rung cây vào buổi sáng sớm khi lá còn ướt sương cho bọ xít rơi xuống, tập trung lại và đốt. + Ngắt các lá có ổ trứng ở mặt dưới đem tiêu huỷ + Phun thuốc diệt bọ xít non bằng Dipterex 0,3%; Sherpa 0,2%. Sâu đục đầu quả (Conopomopha sinensis Bradley):

– Phòng trừ: + Quét dọn cành lá khô, quả rụng làm giảm nguồn sâu + Khống chế lộc đông. + Phun thuốc phòng trừ vào các đợt cuối các tháng 3, 4, 5 và trước thu hoạch 15 – 20 ngày bằng Regent 0,05% để phòng trừ. Rệp hại hoa, quả non (Ceroplastes ceriferus Anderson):

– Phòng trừ: Sử dụng các loại thuốc ít ảnh hưởng đến hoa, quả non như Trebon 0,2%; Sherpa 0,2% phun kép 2 lần, lần 1: khi rệp xuất hiện, lần 2: sau 5 – 7 ngày vào lúc chiều mát. Sâu đục thân cành (Apriona germani Hope):

– Phòng trừ: + Phát hiện sớm vết đục, dùng dây thép nhỏ luồn vào lỗ đục để bắt sâu non + Sau thu hoạch quét vôi vào gốc cây để diệt trứng + Phun các loại thuốc xông hơi như Ofatox 0,1%; Sumicidin 0,2% sau sau đó dùng đất dẻo bít miệng lỗ lại để diệt sâu. Ngài chích hút (Lagoptera dotata Fabricius):

– Phòng trừ: + Xông khói xua đuổi + Bẫy ngài bằng lồng lưới + Bẫy bằng bả hoá học: Naled 5% + Metyl Eugenol 95% + dịch nước cam, dứa, chuối, mía, mít (100m2/1 bả). Nhện lông nhung hại vải (Eriophyes litchii Keifer):

– Phòng trừ: + Thu gom các lá rụng và cắt bỏ các cành bị hại nặng đem đốt. Sau thu quả và vụ đông cắt tỉa cho cây thông thoáng, làm vệ sinh vườn để giảm bớt điều kiện hoạt động của nhện. + Sử dụng thuốc: Regent 0,1%; Pegasus 0,1%; Ortus 0,1% có tác dụng diệt nhện trưởng thành tốt. Phun cho mỗi đợt lộc 2 lần: lần 1 nhú lộc, lần 2 lộc ra rộ. Câu cấu hại vải (Xanthochellus sp):

– Phòng trừ: Sử dụng các loại thuốc Sherpa 0,1%; Sumicidin 0,1%, supraside 0,15% phun vào lúc chiều mát hoặc sáng sớm. Bệnh mốc sương (Pseudoreronospora sp):

– Phòng trừ: + Sau thu hoạch cắt tỉa cành khô, cành bệnh, tiêu hủy để hạn chế nguồn bệnh. Phun phòng bằng Boocdo (1%), Oxiclorua Đồng (0,3%). Khi thấy xuất hiện bệnh trên hoa quả, dùng Ridomil MZ-72 (0,2%) để phòng trừ. Bệnh sém mép lá (Gloeosporium sp):

– Phòng trừ: + Cắt bỏ những cành lá bị bệnh đem đốt tránh lây lan nguồn bệnh. + Phun Boocdo 1%, Ridomil MZ-72 0,2%. Bệnh thán thư (Colletotrichum gloeosporioides Penz.)

– Phòng trừ: + Sau thu hoạch cắt tỉa cành khô, cành bệnh, gom lại và tiêu hủy. + Phun phòng thuốc vào vụ thu đông bằng Score 0,05%, Oxiclorua Đồng 0,3%, Bavistin 0,1%.

8, Thu Hoạch và Bảo Quản:

Chấm dứt phun xịt thuốc bảo vệ thực vật và chất kích thích sinh trưởng trước khi thu hoạch vải thiều 10 – 15 ngày

– Nên thu hoạch khi quả vải thiều đạt độ chín sinh lý để quả vải thiều có chất lượng ngon nhất và bảo quản lâu hơn. Thời điểm thu hoạch vải thiều tốt nhất là vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Tránh ánh nắng gay gắt chiếu trực tiếp vào trái làm tăng nhiệt độ trong quả, gây mất nước ảnh hưởng đến chất lượng và thời gian bảo quản.

– Dụng cụ thu hoạch quả vải thiều như kéo cắt cành phải sắc, bén. Chùm quả sau khi cắt được đựng trong giỏ, sọt, để trong mát, phân loại sơ bộ và vận chuyển ngay về nhà đóng gói càng sớm càng tốt. Các dụng cụ như dao, kéo, giỏ, sọt… được dùng trong thu hoạch vải thiều nhiều lần phải được chùi rửa, vệ sinh, sát trùng, bảo quản cẩn thận.

– Sản phẩm vải thiều sau thu hoạch không được để tiếp xúc trực tiếp với đất, hạn chế để qua đêm.

– Không chất quả vải thiều quá đầy giỏ, sọt khi vận chuyển, giỏ, sọt phải được bao lót kỹ, che phủ bằng giấy hoặc lá để tránh ánh nắng chiếu trực tiếp vào quả và tổn thương quả do va chạm trong khi vận chuyển.