Canh Cham Soc Cay Cam Canh / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Duhocaustralia.edu.vn

Quy Trình Thâm Canh Cam Đường Canh

Tùy theo địa hình đất (cao hay thấp, dễ hay khó thoát nước) mà lựa chọn phương pháp lên luống hay đắp ụ cho phù hợp.

Tùy theo địa hình đất (cao hay thấp, dễ hay khó thoát nước) mà lựa chọn phương pháp lên luống hay đắp ụ cho phù hợp.

Trồng cây chắn gió, thiết kế hàng rào bảo vệ, hệ thống thoát nước, hệ thống cung cấp nước tưới trước khi trồng cây.

Tùy theo khí hậu từng vùng, đất đai, kỹ thuật canh tác mà khoảng cách thay đổi cho phù hợp, khoảng cách trồng thích hợp nhất cho cam là 4 x 4m.

Đào hố trồng với kích thước: 1 x 1 x 1m. Khi đào, lớp đất mặt để riêng, lớp đất dưới trộn với phân chuồng, vôi bột, lân sau đó lấp hố cao hơn mặt đất 20 – 30cm.

Khi trồng, đào lỗ giữa mô, đặt bầu cây con xuống sao cho mặt bầu cao hơn mặt mô 3 – 5cm. Sau đó dùng đất vun tới mặt bầu rồi dận chặn, tưới nước.

Khi đặt cây phải xoay mắt ghép theo hướng chiều gió để tránh gãy nhánh, có thể cắm cọc để cây khỏi bị tác hại của gió.

Những năm đầu cây giống còn nhỏ chưa giao tán phải làm sạch cỏ gốc. Ở những vùng đất bằng hoặc hơi dốc nên trồng cây phân xanh ở giữa các hàng cây để vừa che phủ đất giữ ẩm, chống cỏ dại, tạo nguồn phân xanh cải tạo đất và cung cấp dinh dưỡng cho cây.

Đối với đất dốc, giữa các hàng cam gieo 1 hàng rào kép cây phân xanh thuộc loại thân bụi như muồng, cốt khí, keo, đậu để chống xói mòn và cung cấp chất hữu cơ tại chỗ. Lượng hạt cây phân xanh từ 20-25kg/ha. Diện tích đất trống còn lại trên băng gieo các loại cây họ đậu thân thảo như đậu hồng đáo, cỏ sytilo, lạc dại.. để che phủ, giữ ẩm đất và chống cỏ dại. Thường gieo trồng cây phân xanh trước khi trồng cam, hoặc ngay sau khi trồng.

Trụ cột của tán cây là 3 cành chủ C1, mỗi cành C1 lại có 2-3 cành C2. Cành cấp 1 mọc từ thân chính, cách mặt đất 50cm, xiên góc 60-80o so với thân chính. Cành cấp 2 mọc xiên 10-200 từ cành cấp 1, độ dài cành cấp 1 khống chế trong khoảng từ 50-60cm. Cành cấp 3 mọc xiên từ cành cấp 2 với góc 10-200. Cành mang quả là cành cấp 4, phân bố đều xung quanh tán cây.

Loại phân Lượng phân bón (g/cây)

+ Thời kỳ bón: Bón phân thúc 4-5 lần/năm vào các tháng 2, 4, 6, 10 và tháng 12. Lượng phân chia đều trong các lần bón.

+ Phương pháp bón: Lúc cây còn nhỏ, phân vô cơ được hòa với nước để tưới cho cây kết hợp với các đợt xới xáo làm cỏ.

Khi cây lớn, rạch rãnh xung quanh tán, rãnh sâu khoảng 10-15 cm, rắc phân vào rãnh rồi lấp đất lại. Mỗi lần bón phân đều phải kết hợp với làm cỏ, xới xáo gốc, tưới nước và tủ gốc cây.

Phân chuồng được bón với lượng 50-60kg/cây/năm, bón 1 lần cùng với lần bón phân hữu cơ vào đầu vụ xuân. Khi bón phân chuồng, rãnh bón được cuốc sâu và rộng hơn, sâu từ 15-20 cm, rộng từ 20-30 cm.

2.2. Chăm sóc thời kỳ kinh tế (sau thời kỳ kiến thiết cơ bản)

Thường xuyên phát cỏ, tủ gốc để giữ ẩm. Bổ sung nước tưới để duy trì ẩm độ đất đạt từ 70-75% sau khi đậu quả và trong giai đoạn quả lớn.

+ Lượng bón: Vào thời kỳ kinh tế, lượng phân bón chủ yếu dựa vào năng suất vụ trước đó để đảm nhu cầu dinh dưỡng cho cây.

Lượng phân bón được khuyến cáo sử dụng theo bảng sau:

+ Thời kỳ bón: Bón phân trong thời kỳ cây cho quả được chia làm 3 lần chính: bón sau thu hoạch quả, bón trước khi ra hoa và bón trong thời gian quả lớn. Lần bón thứ 3 có thể được chi thành 2-4 lần nhỏ, tùy điều kiện từng nơi. Lượng phân bón được áp dụng theo hướng dẫn trong bảng dưới.

* Bón sau thu hoạch: Rạch rãnh xung quanh tán (rộng 30cm, sâu 20 cm), rắc phân (phân vô cơ và hữu cơ) vào rãnh rồi lấp đất kín.

* Bón thúc: bón theo rãnh, rãnh sâu 10cm, rộng 15cm, mỗi lần bón phân đều phải kết hợp với làm cỏ, xới xáo gốc, tưới nước và tủ gốc lại gốc cây.

Tiến hành cắt tỉa 3 lần trong năm, vào các đợt sau:

+ Đợt 1: Cắt tỉa sau thu quả. Cắt bỏ tất cả những cành trong tán, cành nhỏ, cành yếu, cành sâu bệnh, một số cành vượt, cành mọc đan xen nhau. Cắt tỉa kết hợp với vệ sinh đồng ruộng, đốt bỏ hết tàn dư sâu bệnh trên vườn.

+ Đợt 2: Cắt vào vụ xuân, thời điểm cây ra hoa đậu quả: cắt bỏ những cành yếu, cành có chùm hoa nhỏ, cành sâu bệnh, cành mọc trong tán.

+ Đợt 3: Cắt tỉa vào vụ hè, giai đoạn quả lớn: Cắt bỏ những cành sâu bệnh, tỉa bỏ quả nhỏ quả dị hình.

– Trưởng đẻ trứng vào mặt dưới lá non. Sâu non đục vào lớp dưới biểu bì tạo đường hầm ngoằn ngoèo màu trắng bạc. Sâu non đẫy sức hoá nhộng ngay trong vòng cuộn của lá. Vòng đời sâu vẽ bùa ngắn, từ 17 – 23 ngày.

– Phòng trừ: phun Polytrin 440EC nồng độ 0,25%. Phun khi lộc non mới nhú, dài1-2cm

– Loài Hypomeces squamosus màu xanh vàng, kích thước lớn hơn loài Platymycterus sieversi, màu trắng đục. Khi có tiếng động, câu cấu lẩn trốn hoặc giả chết rơi xuống đất. Trưởng thành hoạt động giao phối vào ban ngày, trứng đẻ từng ổ 3-5 quả vào các kẽ thân cây hoặc mép lá khô. Sâu non nở ra rơi xuống đất, hoạt động dưới mặt đất. Trưởng thành vũ hoá sau những cơn mưa tháng 4-5 và tháng 7-9.

– Phòng trừ: phun Supracide 0,20 – 0,25%

– Vào tháng 4-5, trưởng thành đẻ trứng, từng quả, vào nách lá non, đỉnh chồi. Sâu non đục vào bên trong cành tạo đường ngoằn ngoèo xoáy trôn ốc. Lúc đầu, đường hầm đục hướng ra ngoài tán, sau đó đường đục quay vào phía trong thân và sâu hóa nhộng ở đó.

– Phòng trừ: Phun Supracide 0,2 – 0,25% khi lộc non xuất hiện hoặc bơm Ofatox 0,1% vào lỗ đục trên cành, sau đó dùng đất sét bít kín lỗ thông.

– Trưởng thành màu xanh đậm có những đốm trắng. Trưởng thành đẻ trứng, từng quả, vào các vết nứt của cây. Sâu non đục vào trong thân tạo đường ngoằn ngoèo hướng từ dưới lên trên, hoá nhộng ngay trong thân cây.

– Phòng trừ: vệ sinh vườn, gốc cây sạch sẽ. Thường xuyên dùng nước vôi đặc quét gốc để hạn chế trưởng thành đẻ trứng lên thân cây. Bơm Supracide 0,2 – 0,25% vào lỗ có sâu, dùng đất sét bịt kín lỗ sâu đục để diệt sâu non.

Nhóm ngài chích hút quả : Othreis fullonia, Ophiusa coronata, Ophiusa tirhaca.

– Trưởng thành hoạt động từ chập tối đến khoảng nửa đêm, hút dịch trên những quả cam chín. Quả bị ngài chích sẽ thối, sau đó bị rụng.

– Phòng trừ: Đặt bẫy dẫn dụ có trộn thuốc trừ sâu để diệt ngài, 10 bẫy/ha.

– Ruồi trưởng thành dài 4 – 5 mm, màu nâu đỏ, vân vàng. Trưởng thành cắm ống đẻ trứng vào quả, sâu non nở ra ăn thịt quả và phát triển thành dòi ở bên trong. Ruồi vàng phá hoại nặng vào tháng 8-9. Quả bị hại thường bị rụng sớm.

– Phòng trừ: dùng bả Metyleuzernol + Nalet tiêu diệt con trưởng thành.

– Rệp sống thành quần tụ, hút nhựa trên chùm hoa hay các bộ phận non. Chất bài tiết của rệp là môi trường thuận lợi cho nấm muội đen phát triển. Rệp gây rụng hoa, quả non, đọt non biến dạng, lá bị xoăn lại.

– Phòng trừ: phun DC Tron Plus 0,5%, Supracide 0,2% khi phát hiện thấy rệp hại

– Rầy trưởng thành màu xám nâu, dài 2,5 – 3 cm. Rầy cái đẻ trứng trên các lộc non vừa nhú, rầy có thể đẻ tới 800 quả trứng. Rầy trưởng thành hoạt động nhanh nhẹn, rầy con màu vàng sáng rất ít di động.

– Phòng trừ: Phun dầu DC Tron Plus 0,5%, Sherpa 0,2% để phòng trừ

– Nhện đỏ có chiều dài khoảng 0,5 mm, thân hình ô van, màu đỏ sẫm (Tetranychus) hoặc đỏ tươi (Panonychus citri), trên thân có lông dài thưa màu trắng hoặc hơi vàng. Trứng nhện màu đỏ tươi hình cầu hoặc hình củ hành. Nhện đẻ trứng sát gân lá, trên cả hai mặt lá.

– Phòng trừ: Phun Abarmactin: 0,3%, DC Tron Plus 0,5% , Pegarus 0,2%, Saromite 0,15%

Bệnh vàng lá: Greening do Liberibacter asiaticus

– Cây bị bệnh có hiện tượng “gân xanh lá vàng”. Bệnh thường biểu hiện từ những cành đơn lẻ, lá rụng dần và cành bị chết. Ở những cành bị bệnh, quả nhỏ, biến dạng, màu nhợt, chua.

– Phòng trừ: chặt bỏ những cây bị bệnh. Chăm sóc tốt cho vườn cam, trồng xen ổi để xua đuổi rầy chổng cánh.

Bệnh loét cam: Xanthomonas campestris citri

– Triệu chứng: Trên lá, khi mới xuất hiện, vết bệnh có dạng giọt dầu trong suốt, sau đó vết bệnh lan rộng ra thành hình tròn hay hình bất kỳ màu nâu nhạt, quầng vàng. Vết bệnh lan nhanh khi gặp nhiệt độ, ẩm độ cao. Khi cây bị bệnh, lá rụng hàng loạt, cành khô rồi chết, cây sinh trưởng kém, quả rụng sớm.

– Phòng trừ: phun dung dịch Boocđo 1%.

+ Bệnh chảy gôm: Phytophthora sp

– Bệnh chủ yếu hại các rễ tơ nơi tiếp giáp giữa bộ phận trên và dưới mặt đất. Ở cây bị bệnh, lá chuyển vàng, nhựa chảy ra từ các vết bệnh trên thân.

– Phun hoặc quét dung dịch Aliet 2% hoặc boocdo 3% lên thân cây.

Tiến hành thu hoặc khi quả chuyển màu vàng. Quả được thu hoạch vào ngày nắng khô ráo, không nên thu trái ngay sau mưa hoặc vào những ngày mù sương vì quả dễ bị ẩm thối. Quả thu xong cần để nơi thoáng mát, không nên tồn trữ quá 15 ngày kể từ khi thu hoạh vì làm giảm giá trị thương phẩm quả. Muốn bảo lâu, phải đặt quả nơi thoáng mát.

Nguồn: chúng tôi

Cây Giống Cam Đường Canh

Có tên gọi cam nhưng quả chỉ nhỉnh hơn quả quýt chút xíu. Vỏ mỏng và ăn rất ngọt và thanh. Cam đường canh là loại quả hiện đang được nhiều người tìn mua mỗi khi đến mùa. Cam đường canh thực ra là một giống quýt nhưng từ lâu người dân quen miệng gọi là cam đường canh. Ở nhiều địa phương giống cam đường này thường được gọi với các tên gọi khác như cam canh, cam giấy vv. Đây là giống quả khá dễ tính nên được trồng nhiều nơi quanh nước ta. Cam đường canh cho quả hình cầu dẹt khi chín từ màu xanh chuyển sang màu đỏ óng. Cũng do vỏ quả khá mỏng nên nhiều nơi gọi là giống cam giấy. Bên trong có ruột màu vàng ăn khá ngọt và thơm.

Cam đường canh khi chín từ màu xanh chuyển sang màu đỏ óng

Cam canh giống cam ngon của Việt Nam

Cam đường canh là loại quả có nhiều giá trị dinh dưỡng. Hàm lượng chất xơ cao cùng hàng loạt các nhóm vitamin và khoáng chất giúp bồi bổ cơ thể nâng cao sức đề kháng một cách hiệu quả. Không chỉ vậy, giá trị kinh tế của cam đường canh khá cao. 1ha trồng theo đúng kĩ thuật có thể thu về 50 tấn quả thành phẩm. Hiện nay giống cam đường canh tập trung chủ yếu ở các tỉnh Bắc Giang, Yên Bái, Hòa Bình vv đem lại tiềm năng kinh tế lớn cho các địa phương này.

Cam đường canh ngọt lịm giá trị dinh dưỡng cao

Cây cam đường canh khá đễ tính. Chúng có thể trồng ở nhiều vùng khác nhau của cả nước. Với khả năng chống lại sâu bệnh hại và khô hạn cao nên đây được coi là cây vừa trồng làm cảnh và vừa làm kinh tế.

Việc chọn lựa cây giống đem trồng là yếu tố đầu tiên cực kì quan trọng để giúp cây đạt chất lượng tốt nhất sau này. Cây giống có thể là cây ghép hoặc cây chiết và đều phải là những cây khỏe mạnh không bệnh tật. Cây có chiều cao tương đối từ 30cm trở lên đường kính thân lớn hơn 0,5cm.

Chọn tiêu chuẩn giống cây cam đường canh Chọn cây giống cam canh vui lòng liên hệ với chúng tôi 08 6662 3663 Trung Tâm chuyển giao giống cây ăn quả Học Viện Nông Nhiệp Việt Nam

Theo kinh nghiệm của nhiều nhà làm vườn thì cây cam canh có thể trồng quanh năm nhưng thời điểm đầu mùa xuân và cuối mùa mưa tháng 9 là thích hợp nhất.

Muốn trồng cam được tốt thì đất trồng cần phải có hệ thống thoát nước tốt. Những vùng cao cần phải có hệ thống tưới nước nhất là vào mùa khô. Nơi thấp trũng cần phải đào mương lên luống tránh ngập úng. Hố trồng cây cam đường canh có kích thước tiêu chuẩn từ 60x60x60cm và các hố cách nhau từ 3m trở lên.

Trước khi có ý định trồng 1 tháng bạn nên chuẩn bị hố trồng và bón lót cho hố. Lượng phân chuồng hoai mục kèm NPK và một lượng vôi bột sẽ tùy thuộc vào chất đất và độ pH. Khi bón bạn trộn đều hỗn hợp lại với nhau và bón đều xung quanh hố. Lấp đất lại và chờ 1 tháng sau rồi tiến hành trồng. Sau 1 tháng hố đã được xử lý bạn tiến hành trồng cây con giống. Đào hố nhỏ bằng kích thước bầu đất và cho bầu đất vào rải đất phủ kín phần rễ và dùng tay lèn chặt cố định cây giống cho thẳng. Sau khi trồng tiến hành tưới nước ngay. Chú ý nếu trồng vào mùa khô có thể rải xung quanh gốc cây một ít rơm rạ để giữ nước tránh bốc hơi.

Trồng và chăm sóc cây cam đường canh ra sai quả

Cay cam đường canh là giống cây ưa nước. Tùy vào điều kiện đất và sinh trưởng của cây mà có chế độ tưới nước cho phù hợp. Chú ý giai đoạn mới trồng trong 30 ngày tiếp theo bạn định kì 2 ngày nước nước 1 lần sau đó giảm dần tần suất tưới.

Vào thời điểm cây bắt đầu ra cành mạnh bạn nên tiến hành thăm vườn thường xuyên để cắt tỉa loại bỏ những cành già, cành héo sâu bệnh để cây tập trung sức nuôi cành mới cành khỏe mạnh. Dưới gốc nên thường xuyên cắt tỉa cỏ dại và vun xới gốc định kì cho đất được thông thoáng. Trong giai đoạn đầu bạn có thể trồng xen thêm những loại cây chắn gió để không những tránh gió bão cho cây mà còn giúp hạn chế sự bốc hơi nước.

Xếp sau nước thì việc bón phân cũng quan trọng không kém. Khi cây phát triển được 3 tháng thì bạn tiến hành bón phân chuồng hoai mục cho cây định kì hàng năm. Năm 1-3 lượng phân bón cho cây khoảng 10kg phân chuồng hoai mục. Phân NPK 1kg. Giai đoạn từ năm thứ 3 trở đi bạn bón cho cây khoảng từ 10-30kg phân chuồng hoai mục và 1kg phân NPK.

Chú ý việc chăm sóc cam đường canh thật tốt

Khi quả chuyển từ xanh sang vàng đỏ sậm là lúc mùa thu hoạch đã đến. Nên thu hoạch quả vào lúc trời khô ráo râm mát. Sử dụng kéo chuyên dụng cắt sát từng chùm quả. Đặt nhẹ nhàng trong thùng xốp hoặc sọt và để nơi thoáng mát. Sau mỗi đợt thu hoạch bạn tiến hành vệ sinh xung quanh gốc cây, cắt tỉa những cành sâu bệnh và cành già để chuẩn bị chăm sóc cho vụ mới.

Kỹ Thuật Trồng Cam Đường Canh

Cam đường canh là loại cây sinh trưởng khoẻ, ít gai hoặc không có gai, cây phân cành mạnh, cành nhỏ, có dạng hình lá to hoặc lá nhỏ, nhưng hình thái giống nhau: mép lá gợn sóng dài, đuôi lá nhọn và dài, gần như không có eo lá. Quả hình cầu hơi dẹp, vỏ mỏng, nhẵn, ít túi dầu tinh, khi chín có màu đỏ gấc; giống chín sớm có màu vàng đa số chín vào trước tết Nguyên đán 1 tháng. Thịt quả mọng nước, ít hạt vách múi hơi dai, ít xơ bã, ngọt mát nếu là giống chín muộn, giống chín sớm có vị ngọt đậm. Cam đường canh là giống có năng suất cao, thích nghi rộng, trồng được trên núi cao, vùng đồng bằng và ven biển thoát nước. Tính chống chịu với sâu bệnh hại khá tốt. Nếu trồng mật độ dày và thâm canh ngay từ đầu có thể đạt năng suất 40-50 tấn/ha.

I. KỸ THUẬT TRỒNG

Cây giống phải khoẻ, mập không mang mầm mống bệnh, có bộ rễ khoẻ, đường kính thân cây cách vị trí ghép 3cm lớn hơn 0,5cm, chiều cao trên 30cm đối với cây ghép, với cây chiết đường kính thân lớn hơn 0,8-1cm.

Cam thường được trồng vào đầu (tháng 2) hoặc cuối mùa mưa (tháng 9) là thích hợp nhất.

Làm đất, đào hố, khoảng cách và cách trồng

làm đất: Đất trồng cam phải cao ráo, có hệ thống thoát nước tốt để tránh ngập lụt hàng năm. Ở vùng đồng bằng, vùng trũng phải đào mương, lên luống. Trung du và miền núi nên chủ động nguồn nước để tưới khi cây bị khô hạn.

Đào hố: Hố trồng có kích thước 60x60x50cm. Bón lót 50kg phân chuồng hoai mục + 1kg lân + 1kg vôi bột cho mỗi hố, trộn kỹ với đất trước khi trồng 30 ngày.

Khoảng cách và cách trồng: (3 x 1,5) (luống cách luống 3m, cây cách cây 1,5m). Đặt bầu cây ngang mặt đất, chính giữa hố, vun đất nhẹ lên mặt bầu và nén chặt xung quanh để cây đứng vững. Trồng xong tưới đủ nước để cây nhanh bén rễ. Nếu trời nắng nóng phải che cho cây. Nơi có gió mạnh phải buộc cây vào cọc nhỏ cắm chính giữa hố để cây không bị gió lay.

Chú ý: Khi cây còn nhỏ, chưa giao tán, nên trồng quanh cây đậu đỗ để tận dụng đất, hạn chế cỏ dại và dùng làm phân cải tạo đất.

Thường xuyên tưới đủ ẩm cho cây nhất là từ khi mới trồng đến khi cây 3 tuổi. Thời gian cây ra hoa, đậu quả và nuôi quả, nếu thiếu nước quả sẽ đậu ít và bị rụng nhiều. Thừa nước cây dễ bị bệnh thối rễ cũng gây hiện tượng vàng lá, chết cây.

Cắt bỏ các cành vượt, cành mọc ra từ gốc ghép, cành sâu bệnh, dập gãy. Nuôi dưỡng những cành cần thiết để tán cây đều đặn, cân đối. Việc tỉa cành tạo tán bắt đầu từ khi cây cao 0,5- 0,6m tạo khung thân hợp lý ban đầu vững chắc, cành được phân bố dạng ngôi sao trên thân cây để không che khuất ánh sáng lẫn nhau. Những cành già cỗi sau một thời gian cho quả cũng cần chặt bỏ nuôi những cành non mới cho quả trong những năm tiếp theo.

Trồng cây chắn gió có tác dụng làm giảm sự bốc hơi nước, giảm sự cọ sát của các quả với cành và làm chậm sự di chuyển của các loại côn trùng, nhất là rệp và rầy chổng cánh. Hàng cây chắn gió được trồng chủ yếu ngăn được các hướng gió chính, cách hàng cây cam đầu tiên ít nhất 5m để tránh cạnh tranh dinh dưỡng. Cây chắn gió có thể trồng bằng keo tai tượng, keo lá tràm, keo dậu,….

Sau một tháng cây hồi phục dùng nước phân lợn hoặc nước giải đã ủ pha loãng 10 lần với nước lã hoặc nước phân đạm 1%, 15-20 ngày tưới 1 lần.

Bón phân thời kỳ thiết kế cơ bản (sau trồng 1-3 năm). Lượng phân bón cho 1 cây: 10kg phân chuồng + 100g ure + 300g supelân + 100g kali

Cách bón: tháng 9, tháng 11 bón 100% hữu cơ + 100% lân; từ ngày 15/1 đến 15/3: 40% urê + 40% kali (nhằm thúc cành xuân); tháng 5 bón: 30% urê + 30% kali; tháng 7-8 bón: 30% urê + 30% kali (bón cành thu)

Bón phân thời kỳ kinh doanh (Từ năm thứ 3 trở đi): với cây vào kinh doanh từ tháng 11 hạn chế tưới nước và dùng thuổng hay mai xẻ xung quanh gốc, cách gốc 25-30cm. Chặt đứt rễ xung quanh, phơi gốc 10-15 ngày cho cây cằn, lá vàng hơi héo sau đó bón cho 1 cây từ: 10-40kg phân chuồng hoai mục + 0,5-1 kg supe lân, bón quanh tán lấp kín phân.

Chú ý: Khi xén rễ phải dùng dụng cụ sắc, không làm xơ, dập rễ, lay động gốc ảnh hưởng đến cây, sau đó tưới giữ ẩm cho cây. Khi cây ra hoa kết quả tránh tác động vào gốc, ảnh hưởng đến tỷ lệ đậu hoa, quả.

Khi quả đã ổn định, dùng phân bắc, phân chuồng hoai mục hay đậu tương xay nhỏ (1kg/gốc) ngâm từ 10-15 ngày, pha loãng 5 lần tưới cho cây. Cứ 20 -25 ngày một lần tưới, bã ngâm vớt lên dải đều quanh tán lấp đất nhẹ. Có thể kết hợp dùng phân bón qua lá phun theo nồng độ khuyến cáo vào các tháng 3,5,6,8 và luôn giữ ẩm cho cây.

II. SÂU BỆNH HẠI CAM VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ

1.1. Sâu vẽ bùa

Sâu phát triển nhiều lứa gối nhau quanh năm.Thời gian phát triển trứng từ 2-8 ngày, sâu non 7-20 ngày, nhộng 6 – 12 ngày, bướm sống trên 7-10 ngày.

Sâu vẽ bùa gây hại kéo theo theo vi khuẩn Xanhthomonas citri xâm nhiễm qua đường sâu đục, làm lá nhanh rụng.

– Biện pháp phòng trừ: Phun thuốc vào các đợt lộc ra rộ. Có thể chọn các loại thuốc như Padan 0,1%, Decis 0,1%; Polytrin 0,1%; Selecron 0,1%…

1.2. Rầy chổng cánh

– Đặc điểm: Rầy non và rầy trưởng thành chủ yếu sống ở cánh lá non. Rầy chích hút dịch cây, làm héo và rụng lá non. Nhiệt độ 18 – 25 0 c (mùa xuân và mùa thu) rầy phát triển mạnh. Rầy cái đẻ trứng ở mặt lá non, bình quân mỗi con đẻ 800 – 900 trứng. Rầy non nở ra bám vào mặt lá, ít di động. Mỗi năm có 8 -10 lứa, thời gian trứng 4-12 ngày, rầy non 10 -35 ngày, rầy trưởng thành có thể sống đến 6 tháng.

Ngoài tác hại trực tiếp, rầy chổng cánh còn là môi giới truyền bệnh vàng lá greening, bệnh nguy hiểm nhất hiện nay trên cam.

– Biện pháp phòng trừ: Phun thuốc trừ rầy non và trứng khi lộc non mới ra( chú ý 2 vụ lộc xuân và lộc thu). Có thể dùng các loại thuốc như Trebon 0,1%; Applaud 0,1%, Regant 0,1%… phun 2-3 lần/vụ cách nhau 7 ngày.

1.3. Rệp cam

– Đặc điểm: Từ đầu mùa xuân, khi lộc non của cam bắt đầu phát triển thì rệp cái có cánh từ nơi cư trú bay đến đẻ ra rệp non. Những rệp non phát triển trong 7 -10 ngày thì đa số trở thành rệp cái dạng không cánh. Dạng này có sức sinh sản rất mạnh, mỗi con 1 ngày đêm có thể đẻ được 20 -25 rệp non do đó mà tập đoàn rệp phát triển rất nhanh. Chúng ít di động, chỉ tập trung ở ngọn non, chích hút dịch cây, làm lá và chồi non cong queo. Rệp lan sang cây khác nhờ kiến.

Ngoài gây hại trực tiếp, rệp cam còn là môi giới truyền bệnh Tristcza virus, chất bài tiết của rệp cũng là môi trường thích hợp cho nấm đen phát triển, gây hại cho cây.

– Biện pháp phòng trừ: Dùng tay thu ngắt các lá hoặc cành có rệp để tiêu diệt, khi rệp sinh sản mạnh có thể chọn các loại thuốc để diệt như Bi 58 0,1%, Tre bon 0,1%, Sherpa 0,1%; Fastac 0,1%…

1.4. Sâu đục cành

– Đặc điểm: Bọ trưởng thành xuất hiện từ cuối tháng 4 đến giữa tháng 7 phần nhiều vào buổi sáng. Con cái đẻ trứng vào nách lá, trên trứng có lớp sáp bảo vệ, sâu non nở ra gặm vỏ cành để sống. Sâu lớn sẽ đục vào phần gỗ, mới đầu đục hướng lên, về sau lỗ đục hướng xuống dưới vào đến cành to, cứ từng đoạn sâu lại đục lỗ ăn ngang để đùn phân và bột gỗ ra ngoài. Sâu đẫy sức sẽ đục ra sát vỏ cây để lột nhộng. Thời gian phát triển của sâu non khoảng 8 -10 tháng. Trưởng thành vũ hoá và đẻ trứng trong khoảng 2 tháng. Hàng năm trên 1 cây có thể bị hàng chục con sâu đục làm chết cành.

– Biện pháp phòng trừ: Cắt cành héo đem đốt khi sâu non còn ở cành nhỏ. Khi sâu đục vào cành to rồi thì phải bơm thuốc sâu theo các lỗ để thuốc ngấm vào bên trong diệt sâu. Các loại thuốc trừ sâu thông thường đều có thể diệt sâu này.

1.5. Sâu nhớt

– Đặc điểm: Sâu trưởng thành xuất hiện cùng với lộc xuân, ăn lá non. Con cái đẻ trứng từng đôi mội dính liền nhau vào mép lá, có thể đẻ tới vài trăm trứng, sau khoảng 01 ngày trứng nở.

Sâu non mới nở gặm thịt lá chỉ để lại biểu bì, Sau tuổi 2-3 ăn thủng lá, bài tiết chất nhầy trên lưng, các lá bị hại héo khô và rụng. Sâu non phát triển khoảng 20 ngày thì đẫy sức và tìm nơi để lột nhộng như chỗ vỏ thân, cành to nứt nẻ, thân cây có rong rêu hoặc trong đất ở độ sâu 1 cm ngay dưới tán cây cam.

Con trưởng thành vũ hoá, tìm gặm vỏ quả non. Mỗi năm sâu nhớt phát triển 6-7 lứa, trong đó lứa 1 (vụ xuân) hại nặng nhất.

-Biện pháp phòng trừ: Phòng trừ cùng với các đợt trừ sâu vẽ bùa. Sâu non rất dễ bị tiêu diệt bằng các loại thuốc trừ sâu thông thường như Padan, Trebon, Supracide, Fastac…

1.6. Châu chấu

Đặc điểm: Trưởng thành xuất hiện từ đầu mùa hè kéo dài đến mùa đông thì mật độ giảm đi. Châu chấu sống rải rác vài ba con trên tán cây, chúng ăn phiến lá, tuy bay được nhưng khi gặp động vật thì chủ yếu giả chết rơi xuống thấp để lẩn tránh. Con cái để trứng trong đất và sâu non sinh sống trong đất, ăn rễ cây.

Mỗi năm có 9-10 lứa. Đối với cam thì bọ trưởng thành ăn lá còn sâu non ăn rễ.

Biện pháp phòng trừ: Thu bắt bằng tay các sâu trưởng thành để diệt. Xới xáo đất dưới tán cây để phá môi trường sinh sống của sâu non. Phun thuốc kết hợp với trừ sâu vẽ bùa và các loại sâu khác.

1.7. Sâu xanh

Đặc điểm: Bướm bay lượn tìm hút mật hoa, đẻ trứng từng quả một ở các lá non. Sau 5-7 ngày sâu non nở ra và ăn những phiến lá non. Càng lớn sâu non ăn càng khoẻ, chúng ăn hết phần thịt lá trừ lại gân chính. Sâu non sống lẻ từng con một, trên 1 cành có thể gặp 4-5 con. Khi động, sâu non không bò đi mà giương 2 sợi đỏ trên đầu, đồng thời tiết ra mùi hắc.

Khi đẫy sức sâu non bám vào cành, quấn tơ ngang mình và lột nhộng, không làm kén. Quanh năm đều có sâu nhưng gây hại nặng nhất là vụ hè thu.

Biện pháp phòng trừ: Bắt giết sâu non, phun thuốc trừ diệt kết hợp với trừ sâu vẽ bùa và các loại sâu khác.

1.8. Ruồi đục quả

Đặc điểm: Mùa hè vào buổi sáng ruồi xuất hiện đi tìm thức ăn trên các quả chín. Ruồi thích ẩn trong tán lá rậm rạp, khi có động bay khá nhanh để lẩn tránh. Khi cam chín ruồi đẻ trứng vào vỏ quả. Sau 2-4 ngày dòi nở chui sâu vào trong phần múi quả để ăn tép cam cho tới khi đẫy sức. Quả cam bị hại sẽ thối và rụng. Khi đẫy sức dòi chui ra ngoài vỏ, cong thân búng bật đi xa để rơi xuống đất lột nhộng ở độ sâu 1-2cm, sâu non phát triển trong 8-18 ngày, nhộng 9-10 ngày, ruồi vũ hoá chui lên và tiếp tục gây hại.

Trong mùa đông, vào những ngày ấm áp, nhiệt độ trên 15 0 C ruồi vẫn hoạt động. Khi cam chưa chín ruồi sinh sống ở các cây có quả khác. Trên vườn cam quýt ruồi xuất hiện từ tháng 6-11, mỗi năm có 7-8 lứa.

– Biện pháp phòng trừ: Dùng bẫy bả có chất dẫn dụ trộn với thuốc trừ sâu để diệt ruồi trưởng thành. Phun thuốc trừ sâu vẽ bùa và các loại sâu khác trong các tháng 7-8-9 cũng diệt được ruồi. Nhặt hết quả rụng chôn sâu để diệt dòi bên trong.

1.9. Nhện đỏ

Đặc điểm: Nhện chích hút dịch trong các lá già, lá bánh tẻ làm lá mất màu xanh bóng, biến thành màu xám bạc. Nhện đẻ trứng trong mùa hè, mỗi con để tới 40-50 trứng rải các bên gân chính của lá. Vòng đời mùa hè gần 3 tuần, về mùa đông tới 5 tuần. Nhện ưa thích nơi khô, tuy có quanh năm nhưng mật độ cao là về mùa khô hanh.

Biện pháp phòng trừ: Chú ý chăm sóc bón phân đầy đủ cho cây không để khô hạn kéo dài. Khi mới có nhện, cần phun các loại thuốc như Ortus 0,1%, Pegasus0,1%, comite 0,1%. Khi phun chú ý phun ướt đều cả 2 mặt lá.

1.10.Nhện trắng

Đặc điểm: Nhện chích hút cả lá và quả nhưng chủ yếu hại quả làm quả có những vết rám, chậm lớn, ít nước.

Những năm mùa xuân ấm mùa hè thu ít mưa bão thì nhện trắng phát triển sớm và gây hại nhiều.

Biện pháp phòng trừ: Khi quả có đường kính 1cm nếu rải rác trên cây bắt đầu có vết nhện hại thì cần phun thuốc ngay. Thuốc trừ nhện trắng như đối với nhện đỏ.

2.1. Bệnh chảy gôm

Triệu trứng và tác hại: Bệnh thường phát sinh ở sát gốc cây làm vỏ gốc thối mục. Bóc phần gỗ bị bệnh ra ta thấy nấm gây hại cả vào phần gỗ của gốc cây. Nhựa cây từ các vết bệnh chảy ra, khô lại tạo ra những giọt dịch sánh đặc như gôm.

Hiện tượng chảy gôm còn thấy ở trên thân cành cấp 1,2. Nấm bệnh còn gây hại làm thối rễ con hoặc làm thối quả.

Quan sát toàn cây: Lá vàng trước tiên từ các lá già. Có thể vàng từng cành khi nấm bệnh mới gây hại từng cành. Lá rụng hàng loạt làm chết cành, chết cây.

Mùa bệnh: Bệnh phát sinh và lây lan trong mùa mưa, triệu chứng bệnh rõ rệt làm chết cành, chết cây, thối quả vào cuối mùa mưa và đầu mùa khô.

Phòng trừ:

Dùng gốc ghép kháng bệnh như cam 3 lá, quýt Cleopatre, cam chua, chấp… chú ý hệ thống thoát nước tốt cho vườn cây. Tỉa cành tạo tán hợp lý để tán lá thông thoáng. Khi bệnh mới xuất hiện trên vườn nên phun thuốc Rhidomil hoặc Aliette 0,1% từ 1-2 lần. Xử lý từng vết bệnh ở gốc cây hoặc trên cành bằng cách cạo sạch phần vỏ và gỗ bị bệnh sau đó quét thuốc Rhidomil 0,2% vào vết bệnh.

2.2. Bệnh sẹo

Triệu trứng và tác hại: Lúc đầu vết bệnh xuất hiện giống như bệnh loét nhưng chỉ sau vài ngày vết bệnh phát triển có đặc điểm riêng: Trên lá vết bệnh sần sùi về một phía, phía đối diện thì lõm làm lá quăn queo. Trên quả vết bệnh nổi hình gai ngắn, quả méo mó không phát triển được.

Vùng bệnh: Bệnh có ở tất cả các vùng trồng cam quýt của nước ta. Các tỉnh phía Bắc có mức độ bệnh nặng hơn.

Mùa bệnh: Bệnh phát sinh từ đầu mùa mưa gây hại cho đến hết mùa mưa.

Phòng trừ: Phun Boocdo 1%, Sumi-eight 0,1% hoặc Tiltsuper 0,05% khi các đợt lộc ra trong vụ hè và vụ thu.

2.3. Bệnh thán thư

Triệu trứng và tác hại: Bệnh xâm nhập vào lá tạo nên các vết cháy xám dần dần loang rộng làm phiến lá khô, trên có các chấm đen li ti ở cành bệnh phát triển thành vệt màu xám trắng, trên đó cũng có các chấm nhỏ li ti, nhiều khi bao kín xung quanh cành làm cành chết khô. Bệnh phát triển cả trên quả, phần lớn xâm nhiễm vào cuống quả rồi lan rộng xuống vỏ quả có khi vết bệnh chiếm 1/2 vỏ quả màu nâu nhạt.

Mùa bệnh: Bệnh phát sinh từ mùa hè cho đến hết năm, ẩm độ cao làm bào tử nấm dễ nẩy mầm xâm nhiễm vào mô cây. Bệnh hại trên quả từ khi quả bắt đầu chín và quả thối và rụng hàng loạt.

Phòng trừ: Tỉa cành tạo tán thích hợp để cây thông thoáng. Cắt bỏ sớm các cành bệnh đem đốt, chú trọng biện pháp này khi quả sắp chín. Kết hợp phun thuốc phòng trừ các bệnh khác, dùng boocdo 1% hoặc BenlatC 0,1%.

2.4. Bệnh phấn trắng

Triệu chứng và các tác hại: Trên lá và cành non vụ xuân có lớp mốc trắng bao phủ. Làm lá biến dạng, kém phát triển, bệnh nặng làm chết cành non.

Mùa bệnh: Bệnh xuất hiện trong vụ xuân .

Phòng trừ: Phun thuốc khi bệnh mới xuất hiện vào đầu tháng 3. Có thể dùng thuốc Boocdo 1%, BenlatC 0,1%; Mancozeb 0,2% hoặc Tiltsuper 0,05%, chú ý phun ướt đều tán lá, đặc biệt chồi và lá non.

2.5. Bệnh muội đen

Triệu chứng và tác hại :

Trường hợp 1: Do nấm Capnodium citri

Ở mặt trên của lá, trên cành và cả trên vỏ quả… được phủ đều bởi một lớp bồ hóng màu đen (không tạo thành từng đốm). Khi lấy tay, lấy giẻ lau hoặc dùng nước rửa thì lớp bồ hóng này sẽ hết. Do làm giảm diện tích quang hợp nên ảnh hưởng chung đến các quá trình trao đổi chất của cây, làm cho cây sinh trưởng kém, hoa quả ít và giảm chất lượng.

Trường hợp 2 : Do nấm Mcliola citri

Ở mặt dưới của những đốm to màu đen hơi tròn, kích cỡ vài mm đến 1cm. Trên vỏ quả các đốm đen cỡ 1 mm, đốm càng già thì màu đen càng sậm hơn, bệnh nặng các vết có thể liền nhau thành đám lớn. Khi cạo bỏ lớp bồ hóng đi sẽ thấy mô ở phía dưới vết bệnh thâm đen. Bệnh này làm cây sinh trưởng kém, hoa quả ít và giảm chất lượng.

Mùa bệnh: Từ đầu mùa mưa đến cuối năm

Phòng trừ: Trường hợp 1: Nấm phát sinh và phát triển trên lớp chất thải của rầy, rệp. Do vậy nếu phòng rầy, trừ rệp tốt sẽ hạn chế nấm phát sinh. Có thể trừ rầy rệp bằng cách phun một trong các loại thuốc sau: Supracide, Suprathion, Bi58, Sumialpha, Tre bon, Fastac, Applaud, Polytrin …

Trường hợp 2: Nấm phát sinh và phát triển mạnh trong điều kiện ẩm độ cao, thiếu ánh sáng. Do vậy phòng trừ bằng cách trồng cam trên các nền đất cao, dễ thoát nước, trồng mật độ vừa phải, thường xuyên tỉa cành tạo tán để cành cây thông thoáng. có thể dùng thuốc phòng trừ bệnh như : Boocdô 1%, BenlatC 0,1%, Tiltsuper 0,05% … khi bệnh mới phát sinh.

2.6. Bệnh đốm dầu

Triệu chứng và tác hại:

Trên lá có nhiều vết bệnh màu đen phân bổ rải rác khắp phiến lá. Bệnh nặng các vết bệnh liên kết với nhau, làm lá kém phát triển, bị rụng hàng loạt. Cây bệnh sinh trưởng còi cọc, năng suất và chất lượng quả giảm sút

Mùa bệnh: Bệnh phát sinh từ đầu mùa mưa và gây hại đến cuối năm

Phòng trừ: Phun thuốc phòng sớm khi bệnh mới xuất hiện. Có thể sử dụng boocdo 1%, Benlat C 0,2%, Tiltsuper 0,05 %, sumi-eight 0,1 %, Anvil 0,1%.

Chăm bón đầy đủ để cây sinh trưởng khoẻ tăng sức chống bệnh

2.7. Bệnh loét

Triệu chứng và tác hại: vi khuẩn gây nên các đốm bệnh trên lá, trên cành non và trên quả, làm lá nhanh rụng, cành chết, quả khô hoặc không phát triển được

Mùa bệnh: Bệnh phát sinh từ đầu mùa mưa gây hại cho đến hết mùa mưa

Phòng trừ: Tỉa bỏ cành bệnh, lá bệnh đem đốt. Tạo tán lá thông thoáng. Phun phòng bằng thuốc Boocdo 1%, Starner 0,1 % hoặc Kasuran 0,1 % khi bệnh mới phát sinh

2.8. Bệnh vàng lá Greening

Triệu chứng và tác hại : bệnh vàng lá geenning có triệu chứng gần giống như hiện tượng cây thiếu dinh dưỡng

Trên lá: Lá bị vàng từng cành, phiến lá có những vết đốm vàng nhạt hoặc phần lớn phiến lá vàng, gân lá vẫn còn xanh. Các lá mới ra phát triển không bình thường, lá nhỏ đứng thẳng, hiện tượng lá gân xanh rõ dần. Các lá bị bệnh nặng có hiện tượng sưng gân lá, sờ tay thấp ráp, lá nhanh rụng làm trơ cành dẫn đến làm chết cành sau đó chết cây.

Trên hoa, quả: Hiện tượng ra hoa trái vụ là phổ biến nhưng không đậu quả hoặc chỉ đậu một ít quả. Quả nhỏ, tâm quả bị vẹo, hạt lép, ít nước, màu sắc quả khác thường, từng đám vỏ xanh xen lẫn màu vàng khi quả chín.

Trên rễ: Rễ cây bệnh có những vết thối hỏng trên rễ con và rễ tơ, lớp vỏ rễ dễ dàng bong ra khỏi lõi rễ. Chức năng hút nước và dinh dưỡng của rễ vị hạn chế, do vậy làm cây còi cọc, kém phát triển.

Phòng trừ :

Trồng mới bằng các cây giống sạch bệnh. Cây giống được mua từ các cơ sở nhân giống có uy tín. Không mua cây giống không rõ nguồn gốc hoặc cây giống không đảm bảo sạch bệnh.

Phòng trừ rầy chổng cánh tốt để chống tái nhiễm bệnh. Ngoài chích hút nhựa cây, rầy chổng cánh còn là môi giới truyền lan bệnh vàng lá greening. chỉ cần 1 rầy bệnh cũng có thể truyền được bệnh cho cây. Do vậy phải chú ý phòng trừ triệt để. Rầy chổng cánh thường có mật độ cao vào những đợt cây ra lộc non, nên chú ý phun thuốc 1-2 lần trong mỗi đợt lộc cách nhau 7-10 ngày, nhất là đợt lộc xuân và lộc thu. Có thể dùng một trong các loạt thuốc sau: Applaud M 0,1 %, Trebon 0,15 %, …

Tăng sức chống chịu bệnh của cây bằng biện pháp sau:

Bón phân đầy đủ cho cây cả phân đa lượng (đạm, lân, kaly, can xi) và phân vi lượng ( magiê, mangan, kẽm, đồng, bo, sắt …)

Chủ động tưới tiêu để cây không bị khô hạn hoặc bị úng nước

Tỉa cành thường xuyên tạo cho cây có bộ tán lá cân đối, thông thoáng

Xử lý đối với vườn cây bị nhiễm bệnh vàng lá greening:

Đối với vườn mới trồng: Loại bỏ cây bị bệnh, trồng lại cây sạch bệnh.

Đối với vườn đang cho quả: Thường xuyên kiểm tra, phát hiện sớm và cưa bỏ cành bệnh. Khi vườn cây bị bệnh nặng, không còn hiệu quả kinh tế phải chặt bỏ cả vườn, trồng cây khác vài năm sau đó mới trồng lại cam.

2.9. Bệnh tàn lụi Tristeza

Triệu chứng và tác hại:

Trên thân cành: Có những vết lõm vào phần gỗ

Trên lá: Lá nhỏ, sinh trưởng kém. Khi soi ngược ánh sáng thấy gân lá có các đoạn trong mờ. Lá vàng dần cả cây, bệnh nặng làm gân lá vị sưng sần sùi, toàn cây héo rũ và tàn lụi nhanh chóng.

Phòng trừ: Chọn gốc ghép kháng bệnh hoặc chịu bệnh để sản xuất cây giống. Tạo điều kiện tốt ngay từ đầu để cây sinh trưởng khoẻ, tăng khả năng chống chịu bệnh. Phòng trừ triệt để rệp Toxoptera sp – môi giới truyền lan bệnh. Loại bỏ sớm những cây bệnh để hạn chế lây lan trên diện rộng.

2.10. Bệnh vảy vỏ Exocortis viroid

Triệu chứng và tác hại: Trên phần gốc ghép nhiễm bệnh vỏ gốc bong ra làm cây kém sinh trưởng, khô héo dần.

Phòng trừ :

ở vùng đã có bệnh, không nên dùng gốc ghép để sản xuất giống. Dụng cụ chiết, ghép nhân giống phải được khử trùng cẩn thận trong Hypochlorride Na 0,5 % hoặc trong dung dịch nước Zavel 10%. Phát hiện sớm và loại bỏ cây bị bệnh.

2.11. Bệnh tróc vỏ thân , chảy gôm Psorosis virus

Triệu chứng và tác hại: Psorosis là bệnh phức tạp truyền qua mắt ghép, làm cho thân và cành bị tróc vỏ dẫn đến chảy nhựa cây ra ngoài. Từ vết bệnh có thể tìm thấy cả nấm Phytophthora. Cây bị bệnh sinh trưởng, phát triển kém, ảnh hưởng năng suất, chất lượng.

Phòng trừ :

Dùng cây giống sạch bệnh để trồng. Phát hiện sớm và loại bỏ cây bệnh

III. THU HOẠCH, BẢO QUẢN:

Thời điểm: Thu hoạch khi vỏ quả chuyển từ mầu xanh sang màu vàng khoảng 20-30 diện tích vỏ quả. Cần thu hoạch đúng thời vụ để tạo cho cây phân hóa mầm hoa tốt, thu hái quả vào những ngày râm mát.

Kỹ thuật: Dùng kéo chuyên dụng cắt cuống quả, thu hái quả nhẹ nhàng tránh tổn thương cơ học. Quả được cho vào thùng hoặc sọt có lót giấy, xốp, vận chuyển về nơi tập kết để phân loại, lau khô vỏ quả và tiến hành xử lý bảo quản.

Bảo quản trong hòm gỗ phủ lá chuối khô: Quả được thu hái không bị rập nát, có kích cỡ tương đối đồng đều, được rửa sạch bằng nước vôi trong, để khô 5-7 ngày, bôi vôi cuống quả, xếp vào giữa hòm, khoảng cách các quả được chèn bằng lá chuối khô, đậy nắp giữ kín gió.

Bảo quản trong túi nilon đục lỗ: Quả được thu hái không bị rập nát, có kích cỡ tương đối đồng đều, được rửa sạch bằng nước vôi trong, để khô 5-7 ngày, bôi vôi cuống quả, cho vào túi nilon đục lỗ để nơi thoáng mát./.

BBT

Kỹ Thuật Trồng Và Chăm Sóc Cây Hòe, Ky Thuat Trong Va Cham Soc Cay Hoe

Kỹ thuật trồng cây

Hòe là loài thực vật thân gỗ, có kỹ thuật trồng cây khá đơn giản. Độ cao của cây có thể lên đến 15 mét, thân thẳng, chỏm lá tròn, cành cong queo, lá kép, cụm hoa hình chùy ở đầu cành, tràng hoa hình bướm màu trắng ngà. Ðài hoa hình chuông, màu vàng xám. Quả hòe loại đậu, không mở, dày và thắt nhỏ lại ở giữa các hạt. Nụ hoa hình trứng, có cuống nhỏ, ngắn, một đầu hơi nhọn, dài 3 – 6mm, rộng 1 – 2mm màu vàng xám. Hoa chưa nở dài từ 4 – 10mm, đường kính 2 – 4 mm. Cánh hoa chưa nở màu vàng, mùi thơm, vị hơi đắng. Hòe trồng cây lấy nụ hoa và quả làm thuốc chữa được nhiều bệnh, song chủ yếu dược liệu dùng nụ hoa. Nụ hoa hoè tính hơi lạnh, có nhiều công dụng như hạ mỡ máu, chống viêm, chống co thắt và chống loét, chống tiêu chảy, cao huyết áp, đau mắt; tác dụng tốt với hệ tim mạch, chữa các chứng chảy máu như chảy máu cam, ho ra huyết, băng huyết, đại tiểu tiện ra máu…

1, Tiêu Chuẩn Chọn Giống:

Tại Thái Bình có giống Hòe nếp và Hòe tẻ; Hòe nếp có năng suất cao hơn, các hoa trên cùng một bông nở đồng đều hơn, mật độ hoa dầy hơn vì vậy bà con nên chọn giống Hòe nếp.

2, Thời Vụ và Mật Độ Trồng:

– Khi môi trường có nhiệt độ từ 17°C – 32°C tương ứng từ tháng 11 đến hết tháng 3 (Âm lịch) là khoảng thời gian để trồng cây hòe ghép hiệu quả nhất. - Nếu hòe được trồng trên vùng đất trống, người dân nên trồng cây cách cây: 5 – chúng tôi người trồng muốn trồng hòe xen với cà phê, cây có thể được trồng thưa hơn.

3, Làm Đất Và Đào Hố Trồng:

Vườn trồng phải thoát nước tốt. Cây hòe đặc biệt thích nghi với các vùng đất bãi ven sông, đất pha cát nhẹ, đất có độ pH từ 5,5-6,5. – Cây hoa hòe có khả năng chịu hạn cao nên có thể trồng ở các vùng thiếu nước tưới, trung du, miền núi. – Cây hòe đã được trồng và phát triển rất tốt ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Sơn La, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Đăk Lăk và nhiều vùng khác trong cả nước.

4, Phân Bón Lót:

Dùng phân chuồng đã ủ hoai (cây hòe đặc biệt ưa phân chuồng) sau đó trộn lẫn phân, đất

5, Kỹ Thuật Trồng Cây Hòe:

Đặt cây cho lấp hết bầu (trong lúc cắt bầu tránh làm vỡ bầu).

6, Kỹ Thuật Chăm Sóc Cây Hòe:

6.1 Kỹ thuật chăm sóc định kỳ:

Tưới nước: cần cung cấp đủ nước cho cây nhất là trong mùa khô, khi trái đang lớn và lúc quả sắp chín. Phòng trừ cỏ dại: Phủ gốc chè bằng cỏ, rác, cây phân xanh… để hạn chế cỏ dại; xới phá váng sau mỗi trận mưa to. Làm cỏ vụ xuân tháng 1-2 và vụ thu tháng 8-9, xới sạch toàn bộ diện tích một lần/vụ; một năm xới gốc 2-3 lần.

6.2 Kỹ thuật Cắt tỉa, tạo hình:

Khi cây cao 1,2 – 1,5 m, tiến hành bấm ngọn cho cây ra nhánh, Giữ lại từ 4-5 cành, sau đó tiếp tục bấm ngọn cành để tạo cành cấp 2. Cứ làm như vậy đến khi có bộ khung tán phân bố đều là được. Bấm lộc xuân vào cuối tháng 3: Vì Hòe là cây ra hoa đầu cành nên càng nhiều ngọn, cây càng có năng suất cao. Tiến hành bấm lộc Xuân và bón phân vụ hè để đón lộc hè là lộc cho thu hoạch. Tỉa cành vào cuối vụ thu hoạch làm cho bộ khung tán gọn gàng, tỉa cành sâu, cành nhỏ kết hợp bón phân vụ thu để phát triển lộc đông và lấy sức để cây qua đông.

6.3 Kỹ thuật Bón phân Cho Cây Hòe:

Hòe là cây họ đậu nên có khả năng tự cố định đạm tự do để sử dụng. Tuy nhiên để nâng cao năng suất, nhanh cho thu hoạch chúng ta phải bón phân cho cây hòe. Lượng phân bón cho hòe như sau: + Thời kỳ cây con (4 năm sau khi trồng) bón 0,2 – 0,8 kg đạm + 0,3 – 0,8 kg lân + 0,5 – 0,4 kg kali trong 1 năm/1 hốc. Nguyên tắc bón phân là khi cây còn nhỏ bón ít, khi lớn bón nhiều. Chia lượng phân trên ra 3 – 4 lần bón. Chỉ bón phân khi đất đủ ẩm. Nếu sử dụng phân NPK sử dụng các loại phân có hàm lượng đạm cao như 20:10:10; 16:12:8.

+ Thời kỳ thu hoạch (sau khi trồng được 4 năm): bón 0,5 – 1 kg đạm + 0,3 – 0,5 kg lân + 0,5 – 1 kg kali. Cây càng to bón càng nhiều. Nếu sử dụng phân NPK sử dụng các loại có hàm lượng Kali cao như 13:13:13; 14:14:14; 15:15:15. Ưu tiên phân có hàm lượng TE vì Bo và Zn là hai yếu tố làm tăng sự ra hoa. Thời gian bón: Vụ Xuân bón vào tháng 2 để đón lộc Xuân; vụ Hè từ tháng 4-5 để đón lộc hè là lộc cho hoa, vì vậy lượng phân vụ Xuân và vụ hè bón 30 – 40%. Vụ thu tháng 10 bón lượng phân còn lại để nuôi sức cho cây qua vụ đông kết hợp tỉa cành tạo tán làm cho cây có dáng phù hợp. Có thể bón thêm phân chuồng từ 10 – 15 kg/hốc hoặc tưới nước rửa chuồng chăn nuôi hàng ngày

7, Phòng Trừ Sâu Bệnh Cho Cây Hòe:

Vào thời gian từ tháng 2 đến tháng 4 (Âm lịch), cây hòe đang phát triển cành và lá non nên trong khoảng thời gian này, cây hòe thường mắc các bệnh phổ biến như nấm thân, thối cành non, rệp xáp nhện đỏ, bọ cách cứng và sâu đục thân nên ta có thể phun thuốc phòng trừ từ 1-2 lần vào khoảng thời gian trên.

8, Thu Hoạch và Bảo Quản:

Khi thu hoạch chọn ngày nắng ráo thì phơi hòe được nắng sẽ thơm hơn, có màu đẹp hơn. Khi bẻ cành hoa chỉ nên bẻ hết phần cành hoa mà không bẻ sâu vào cành cấp thấp. Như vậy hòe nhanh ra hoa trở lại hơn. Khi bông hoa hòe chín, có hạt mẩy đều và chuyển sang màu vàng đậm, ta tiến hành thu hoạch. Sau khi thu hái, loại bỏ lá ra khỏi bông, vò sát lấy hạt đem xao kĩ rồi ủ vào bao từ 10-15 phút rồi đem phơi hoặc sấy khô. Hoa hòe khô phải bảo quản trong bao có ni lông. Hiện nay, ở Bách Thuận đã chế tạo ra máy đập suốt hoa hòe chạy bằng mô tơ điện với giá bán từ 7 triệu đến 7.5 triệu / 1 chiếc.

Trích nguồn Intenert

—————————————————————————————————