Cách Trồng Và Chăm Sóc Cây Thuốc Phiện / Top 11 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Duhocaustralia.edu.vn

Cây Thuốc Phiện (Hoa Anh Túc)

Cây thuốc phiện còn có tên: A phiến, a phù dung, cổ tử túc, anh túc.

Đặc điểm thực vật và phân bố

Cây thảo, sống hàng năm, cao 0,7- 1,5 m, ít phân nhánh, thân mọc thẳng. Lá mọc cách, lá phía dưới có cuống ngắn, lá phía trên không cuống, mọc ôm vào thân, mép có răng cưa. Lá hình trứng dài 6-50 cm, rộng 3,5- 30 cm, đầu trên nhọn, ở phía dưới cuống tròn hoặc hơi hình tim. Gân lá nổi rõ ở mặt dưới.

Hoa to đơn độc mọc ở đầu thân hoặc đầu cành. Có cuống dài 12- 14cm, đài hoa gồm 2 lá đài màu xanh sớm rụng khi hoa nở, lá đài dài 1,5 – 2 cm. Tràng 4cánh, dài 5-7 cm màu trắng hay tím hoặc hồng. Nhị nhiều, bao quanh một bầu có một ngăn gồm15- 20 lá noãn dính liền nhau thành hình cầu.

Quả là một nang hình cầu hoặc hình trứng dài 4-7 cm, đường kính 3-6 cm, ở đỉnh có núm, quả có cuống phình ra ở chỗ nối. Quả chín có màu vàng xám. Hạt nhỏ và nhiều (25000-30000 hạt/quả), hơi giống hình thận, dài 0,5 – 1 mm, trên mặt có vân hình mạng, màu xám hay vàng nhạt hoặc xám đen.

Toàn thân cây chỗ nào bấm cũng có nhựa mủ màu trắng, để lâu chuyển thành nâu đen.

Thuốc phiện là cây được trồng từ lâu đời, nguồn gốc có lẽ từ các nước vùng Địa Trung Hải. Căn cứ vào màu sắc của hoa, hạt, hình dáng và kích thước của quả, theo lối cổ điển người ta phân biệt ra các thứ sau:

– Thứ nhẵn ( Papaver somniferum var. glabrum Bois): Hoa tím, quả hình cầu rộng, hạt đen tím, trồng ở Trung Á.

– Thứ trắng( Papaver somniferum var. album DC.) Hoa trắng, quả hình trứng, hạt trắng vàng nhạt. Trồng tại Ấn độ và Iran.

– Thứ đen( Papaver somniferum var. nigrum DC.) Hoa tím, quả hình cầu ở phía dưới, mở lỗ trên mép đầu nhụy, hạt màu xám, Trồng ở châu Âu.

– Thứ lông cứng( Papaver somniferum var. setigerum DC.) Hoa tím, cuống hoa và lá phủ đầy lông cứng. Mọc bán hoang dại ở miền nam châu Âu.

Trong các thứ này, thứ trắng thường được trồng để lấy nhựa, thứ đen để lấy dầu. Trên thực tế người ta vẫn chích lấy nhựa từ quả chưa chín hoặc lấy dầu từ hạt quả chín già của 2 thứ này. Ngày nay người ta lai giống tạo ra các loài có hàm lượng alcaloid cao và thu thu được dầu của hạt.

Thuốc phiện được trồng nhiều ở vùng khí hậu ôn đới và nhiệt đới từ lâu, nhưng vì là cây cho nhựa gây nghiện nên nhiều chính phủ đã cấm trồng thuốc phiện tự do; ở nhiều nước, nhà nước quản lý trồng và sản xuất thuốc phiện. Các nước trồng nhiều thuốc phiện Ấn Độ, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Tư, Nga, Mianma, Lào …

Tại Đông Nam Á, Tam giác Vàng (biên giới ba nước Lào, Thái Lan, Myanma), nổi tiếng là nơi sản xuất thuốc phiện lớn nhất thế giới. Ở Việt Nam, trước đây, vùng cao phía bắc Việt Nam trồng cây thuốc phiện vào vụ đông, thu hoạch nhựa đầu vụ xuân. Từ 1995, Việt Nam cấm trồng cây Anh Túc và thay thế bằng cây dược liệu, cây ăn quả, cây công nghiệp. Hiện nay, về cơ bản thuốc phiện đã bị xoá bỏ, tuy nhiên, còn có một số địa phương có tình trạng tái trồng cây thuốc phiện.

Thuốc phiện mọc tốt tại các vùng khí hậu mát. Cây chịu được khí hậu lạnh (từ 5-10 0 C) và nóng bức. Nhưng những tuần đầu tiên của sự sinh trưởng thời tiết phải mát và ẩm, sau đó khí hậu nóng và khô thì cây mới phát triển tốt, ở nước ta cây phù hợp với khí hậu vùng núi có độ cao 800 – 2000 m. Sau khi phơi khô, lá Coca được bó thành từng bó, để trong vòng 3 ngày trước khi đưa ra thị trường hoặc làm nguyên liệu cho quá trình sản xuất cocain.

Ở các nước có mùa đông giá lạnh người ta thường gieo hạt vào mùa xuân, có nơi gieo hạt vào cuối mùa thu cho tuyết rơi xuống bảo vệ hạtqua mùa đông và thu hoạch vào cuối tháng 7 đầu tháng 8. Ở nước ta thường gieo vào cuối tháng 10 đầu tháng 11, thu hoạch vào cuối tháng 3 đầu tháng 4.

Trước đây các nước châu Âu thường trồng loại cây thuốc phiện cho dầu để ép lấy dầu từ hạt và chiết alcaloid từ quả chín. Mặc dù hàm lượng alcaloid thấp (quả chín của cây thuốc phiện chưa qua giai đoạn chọn giống chỉ có 0,10 – 0,20% morphin trong khi đó nhựa thuốc phiện chưa 5 – 15% morphin) nhưng vì việc chích quả lấy nhựa đòi hỏi nhiều nhân công tốn kém.

Các nước châu Á thường trồng cây thuốc phiện để chính lấy nhựa. Ngày nay người ta thường trồng các loài thuốc phiện đã được cải tạo do các biện pháp trồng trọt và lai chọn giống có tỷ lệ alcaloid cao mà hoạt chất chính là morphin và đạt những yêu cầu về việc thu hái bằng cơ giới. Theo Mothes, có thể tạo ra những loài thuốc phiện chỉ giàu một alcaloid cần thiết nào đó (morphin, codein, thebain… ).

Tùy theo mục đích trồng để lấy nhựa hay lấy dầu và chiết xuất alcaloid từ quả mà có sự thu hái khác nhau.

Khi quả còn xanh bắt đầu chuyển sang màu vàng nhạt, phải chính lấy nhựa vào lúc trời khô ráo. Dụng cụ để rạch có 3 – 5 răng hình dáng khác nhau tùy theo địa phương, người ta rạch các vết ngang hay dọc hoặc nghiêng, hình xoắn ốc tùy theo từng nơi. Vết rạch phải đủ sâu tới các ống nhựa mủ của vỏ hoặc khi gặp mưa nước sẽ theo chỗ rạch vào trong quả làm thối hạt.

Có thể rạch một lần hay nhiều lần trên một quả. Người ta rạch nhựa vào buổi sáng, buổi chiều lấy cạo lấy nhựa. Hoặc rạch nhựa vào buổi trưa hay chiều hôm trước đến sáng sớm ngày hôm sau cạo lấy nhựa khô. Nói chung, sau khi rạch trên quả phải để 8 – 12 giờ cho nhựa tiếp xúc với không khí và ánh sáng làm khô dần. Sau đó dùng dao hoặc dụng cụ đơn giản bằng gỗ hay bằng sắt lấy nhựa quánh đen phơi nắng cho khô. Nhựa thuốc phiện có màu sẫm khi cứng lại; người ta đóng thành bánh có kích thước khác nhau (0,3 – 2 kg) và bọc bằng lá thuốc phiện hay bọc giấy đỏ … Ngay nay nhiều nơi người ta thường trộn nhựa của nhiều đợt lấy khác nhau để có chất lượng đều.

Mỗi quả thuốc phiện có khoảng 0,02g nhựa. Sản lượng tùy vào khí hậu và những yếu tố ảnh hưởng khác, chúng giao động trong khoảng 5 – 20 kg nhựa cho mỗi hecta. Năng suất trung bình ở ta thường đạt 10 – 15kg nhựa/1ha. Hàm lượng morphin trong nhựa thường là 12%.

b/ Thu hoạch quả để chiết alcaloid và lấy hạt ép dầu.

Việc chích nhựa như trên phải làm bằng tay tốn nhiều nhân công. Từ năm 1927 Kabay đã đem trồng thử tại Hungari để lấy quả chín chiết xuất alcaloid. Phương pháp này cũng có năng suất đảm bảo việc khai thác đem lại lợi ích kinh tế. Có nhiều ý kiến khác nhau về việc thu hoach tối ưu. Có tác giả cho rằng hàm lượng morphin đạt tối đa (0,3 – 0,4%) khoảng 10 ngày trước khi hạt chín hoàn toàn, thời tiết khô ráo thì hàm lượng alcaloid gần như không đổi, nhưng khi trời mưa thì giảm xuống đáng kể. Nhưng người ta ưa thu hoạch quả chín khi thân và lá đã khô vì hạt trong quả có hàm lượng dầu tối đa và đỡ công phơi sấy, đồng thời tránh bảo quản khối lượng lớn nguyên liệu như khi thu hoạch cây còn xanh.

Việc thu hái còn dùng tay ở những nơi trồng ít, còn những nơi trồng lớn thường dùng máy gặt đập. Năng suất đạt 300 – 500 kg vỏ quả và 300 – 500 kg hạt/ha.

Nhựa thuốc phiện lấy từ quả chín (Opium)

Quan sát bên ngoài: Bánh hình tròn hay hình vuông, có khi hình chữ nhật. Mặt ngoài màu nâu đen, đôi khi còn sót những mảnh lá hay vỏ quả thuốc phiện. Mặt cắt mịn hay hơi lổn nhổn. Khi còn mới thì mềm, dẻo, để lâu thì cứng, giòn. Mùi đặc biệt. vị đắng.

Soi kính hiển vi: Nghiền ít bột thuốc phiện trong dung dịch cloral hydrat 10%, soi kính hiển vi sẽ thấy: Những hạt nhỏ màu nâu, đứng riêng lẻ hay tụ thành đám, to nhỏ không đều (nhựa mủ). Mảnh vỏ quả ngoài gồm tế bào hình nhiều cạnh, có thành dày màu trắng nhạt. Khoang (lumem) hình sao trong chứa một chất màu nâu

– Quả chưa lấy nhựa dùng cho công nghiệp chiết xuất alcaloid có kèm theo đoạn cuống dài 10 – 12 cm.

– Quả hái sau khi lấy nhựa (anh túc xác, cù túc xác).

Tùy theo thứ mà có hình dạng và kích thước khác nhau, hình trứng hoặc tròn có lỗ mở hay không. Từ thành quả nang vào trong có 8 – 12 vách phân chia quả thành các ô không hoàn chỉnh mang hạt.

Quả thu hái trước khi chín hoàn toàn có màu vàng xám nhạt. Ở trạng thái khô quả không có mùi, vị hơi đắng. Phải loại hạt trước khi đem dùng trong ngành Dược.

Cắt ngang quả sẽ thấy: Vỏ quả ngoài có tế bào nhỏ, bên ngoài phủ một lớp cutin dày. Vỏ quả giữa bao gồm các tế bào thành bằng cellulose. Vỏ quả trong bào gồm các tế bào dẹt và lấm chấm kéo dài tới các lá noãn với mô mềm hơi xốp. Trước mỗi tấm lá noãn trong vỏ quả giữa có một bó libe gỗ với các sợi trụ bì, có các ống nhựa mủ xếp thành mạng lưới.

Hạt hình thận, rất nhỏ, đường kính khoảng 0,1 – 0,2 mm, cân nặng khoảng 0,1 – 2mg, mặt trên hạt có hình mạng. Màu vàng nhạt, trắng, xám, nâu hoặc đen tùy theo từng thứ thuốc phiện. Nội nhũ có nhiều dầu và alơron, phôi rất nhỏ, hạt không có mùi vị “dầu”.

Đôi khi cũng được dùng ngoài làm thuốc giảm đau.

– Lá: Chỉ có vết alcaloid (0,02 – 0,04%).

– Quả: Tỷ lệ alcaloid thay đổi tùy theo nòi.

– Trong quả khô thường có 0,02 – 0,03% alcaloid toàn phần, bằng con đường chọn giống người ta có thể nâng hàm lượng morphin lên ới 0,8%.

– Ở những quả khô đã lấy nhựa thì hàm lượng alcaloid nhất là morphin chỉ còn lại rất ít.

– Hạt: Không có alcaloid, chứa 15% glucid, 20% protein, 40 – 45% dầu. Dầu béo gồm các glycerid của các acid béo không no.

– Nhựa thuốc phiện: Hoạt chất trong nhựa thuốc phiện là các lcaloid (20 – 30%) ở dạng muối (meconat, lactat,…). Tới nay đã phân lập được khoảng 40 alcaloid. Căn cứ vào cấu tạo hóa học người ta xếp vào nhiều nhóm.

– Alcaloid chính là morphin: 6,8 – 20,8 % (thường điểu chỉnh tới 10% trong bột thuốc phiện dược dụng).

– Codein: 0,3 – 3%

– Thebain: 0,3 – 1%

– Papaverin: 0,8 – 1,5%

– Laudanin:

– Laudanosin:

– Noscapin (= Narcotin): 1,4 – 12,8%

– Narcotolin

– Protopin (= Fumarin)

– Cyptopin (Cryptocavin)

Ngoài alcaloid, trong nhựa thuốc phiện còn có:

– Các acid hữu cơ: Acid meconic (3 – 5%), acid lactic (1 – 2%), acid acetic, fumaric, vanilic, gần đây người ta còn thấy có acid cetonic (oxalcetic, pyruvic, cetoglutaric).

Trong các acid hữu cơ này có acid meconic cần chú ý. Nó cho màu đỏ máu với muối sắt (III), phản ứng này dùng để định tính nhựa thuốc phiện.

– Ngoài ra còn có nước (5 – 10%), chất vô cơ (5 – 6%), đường, chất nhày và pectin (20%) ít protid và acid amin tự do, lipid, chất cao su, tanin, men…

Có nhiều phương pháp tùy theo từng tác giả

Theo phương pháp của Thiboumery: Chiết nhựa thuốc phiện bằng nước nóng. Rót dịch chiết vào sữa vôi nóng, calci morphinat tan trong nước vôi thừa, còn tạp chất thì tủa xuống. Lọc, đun sôi dịch lọc và thêm amoni clorid sẽ có morphin base tủa xuống. Rửa tủa bằng nước, rồi hòa tan trong acid HCl sẽ có morphin hydroclorid, sau cho kết tinh lại nhiều lấn sẽ thu được morphin hydroclorid tinh khiết.

Ngoài ra còn nhiều phương pháp khác. Hiện nay người ta còn dùng các nhựa trao đổi ion, morphin gắn vào nhựa anion có tính kiềm mạnh (anioit), sau đó đem ngâm tách bằng acid loãng.

Chiết từ quả khô chưa chích nhựa:

Theo phương pháp Kabay: Lấy quả thuốc phiện khô có đoạn cuống 10 – 12cm xay nhỏ. Chiết bột dược liệu bằng nước nóng, cô dịch chiết thành cao đặc, chiết lại bằng cồn, cất thu hồi dung môi và tủa morphin bằng amoni sulfat ở môi trường kiềm có benzen. Lấy riêng tủa morphin. Có một số alcaloid khác như codein, narcotin và thebain… hòa tan trong benzen. Tách lớp benzen rồi lần lượt làm kết tủa để lấy riêng codein, narcotin và thebain bằng cách tạo muối thích hợp.

Ngoài ra người ta còn phân lập morphin và các alcaloid phụ bằng phương pháp trao đổi ion.

Ngâm 0,5g thuốc phiện trong 10ml nước, lọc. Thêm vào dịch lọc vài giọt acid hydrocloric đậm đặc (TT) và 10 ml ether. Lắc và để yên. Gạn lấy lớp ether cho vào một ống nghiệm. Thêm 2 – 3 ml nước có pha một giọt dung dịch FeCl 3 5% (TT). Lắc và để yên lớp nước sẽ xuất hiện màu đỏ.

– Xác định alcaloid: Lắc 0,2 g thuốc phiện với 5ml chloroform và vài giọt dung dich amoniac trong 10 phút. Để bốc hơi tự nhiên chloroform trên mặt kính đồng hồ, ở xung quanh sẽ có một vòng tủa tinh thể màu trắng xám nhạt. Thêm 2 giọt thuốc thử sulfoformol sẽ xuất hiện màu đỏ sẫm (phản ứng do morphin).

– Phản ứng Huseman: Chiết bột thuốc phiện bằng chloroform có amoniac, bốc hơi dịch chiết, cho vào cắn 0,5 – 1 ml acid H­­ 2SO 4 đặc, đun 30 phút trong nồi cách thủy sôi; nếu có morphin thì dung dich xuất hiện màu đỏ vàng. Sau khi nguội cho thêm một giọt acid HNO 3 đặc sẽ xuất hiện ngay màu xanh đến tím đỏ va màu này sẽ mất dần (do morphin chuyển thành apomorphin).

– Xác định alcaloid bằng sắc ký giấy: Chiết lấy cồn thuốc phiện 1/10 (Dùng cồn 60 0) chấm lên giấy đã tẩm dung dịch monokali photphat 0,2M, dùng dung môi khai triển là n-butanol bão hòa nước (có so sánh với mẫu chuẩn của morphin, codein, papaverin, noscapin). Sau khi khai triển và sấy khô, phun lên giấy sắc ký thuốc thử Dragendorff (hoặc dùng kali iodoplatinat).

– Xác định alcaloid bằng sắc ký lớp mỏng: Có nhiều tác giả nghiên cứu định tính các alcaloid trong thuốc phiện bằng sắc ký lớp mỏng. Theo Neubauer và Mothes để kiểm tra nhựa thuốc phiện có thể dùng chất hấp phụ là silicagen G với dung môi khai triển là benzen + metanol (80 + 20) sẽ tách được 10 alcaloid; dùng thuốc thử Dragendorff để phun hiện màu. Bayer dùng chất hấp phụ là silicagen G với hệ dung môi là xylol: metyletylceton: metanol: dietylamin (40: 60: 6: 2) sẽ tách được narcotin có R f: 0,74; papaverin 0,59, thebain 0,45, codein 0,26, morphin 0,12. Dùng hệ dung môi khai triển là: CHCl 3: MeOH: NH 4 OH [50: 9: 1] có thể tách được trên 10 alcaloid.

Muốn định lượng morphin phải chiết riêng được morphin rồi định lượng bằng phương pháp đo thể tích, phương pháp cân hay phương pháp so màu.

Vì morphin có chứa OH – phenol nên tan trong dung dịch nước có tính chất kiềm và không tan trong các dung môi hữu cơ thường dùng như những alcaloid khác, do đó quá trình chiết tách morphin không thể áp dụng như các phương pháp thông thường.

a/ Định lượng morphin trong nhựa thuốc phiện bằng phương pháp đo thể tích

Quá trình tiến hành được ghi chi tiết trong dược điển Việt Nam II (và một số dược điển khác như Dược điển Quốc tế, Dược điển Pháp..) ở đây chỉ giải thích những điểm chủ yếu của phương pháp

– Morphin tồn tại ở thuốc phiện dưới dạng muối tan trong nước (đặc biệt là meconat). Nếu chiết bằng nước sẽ không chiệt để và có một số muối alcaloid khác cũng tan theo. Người ta dùng nước vôi, các alcaloid khác bị vôi đẩy, còn morphin vì có chức phenol nên tạo ra calci meconat. Tuy nhiên cũng có một ít alcaloid khác như narcotin, nacetin… cũng tan theo morphin, như vậy trong dịch chứa calci morphinat còn ít vôi thừa và một phần nhỏ vài alcaloid khác.

– Với số lượng dịch lọc đã cân trước cho thêm amoni clorid, chất này phản ứng với nước vôi tạo ra amoniac. Amoniac giải phóng làm tủa morphin và lượng amoniac thừa quá ít không đủ để hòa tan lại alcaloid. Mặt khác, amoi clorid thừa có tác dụng đệm nên cũng hạn chế số morphin hòa tan lại nếu có amoniac thừa. Tủa tạo ra với sự có mặt của cồn 90 0 và ether là để loại những tạp chất đi kèm theo morphin (nhựa, narcotin …). Sau 24 giờ, lọc lấy tủa morphin trên phễu thủy tinh xốp, rửa tủa bằng ether rồi bằng nước bão hòa morphin và ether cho đến khi loại hết clorid. Sau đem sấy khô ở 100 – 105 0 C trong 30 phút.

– Hòa tan morphin trong metanol nóng, metanol không hòa tan vôi và các muối calci. Chuẩn độ bằng HCl 0,1N, dùng chỉ thị màu metyl đỏ, có thêm nước pha loãng để chuẩn độ sau cùng.

– Trong công thức tính toán kết quả định lượng người ta cộng thêm 1 vào số ml dung dịch HCl 0,1N đã dùng và để bù vào lượng morphin hao hụt do còn lại trong dung dịch. Mặt khác để tính toán so với thuốc phiện khan nên cần phải tính đến hàm lượng nước chứa trong nhựa đem kiểm nghiệm, xác định nó bằng cách loại nước ở tủ sấy 100 – 105 0C. Trong dung dịch chiết, vì phải xử lý thuốc phiện bằng nước và vôi nên khối dịch lọc lấy bao gồm các chất hòa tan, lượng nước có trong mẫu thuốc phiện kiểm nghiệm và lượng nước mới cho thêm vào. Để xác định dịch chiết calci, đem bốc hơi một phần nhất định dịch lọc và đem cân cặn đã sấy ở 100 0 C.

Trong công thức có tính đến hàm lượng nước trong thuốc phiện và dịch chiết calci cho phép tính hàm lượng morphin trong nhựa đã kiểm nghiệm ra morphin khan.

b/ Định lượng morphin trong quả thuốc phiện khô:

– Nguyên tắc: Chiết bột quả thuốc phiện khô bằng n- propanol trong môi trường HCl 0,1N ở bình Soxhlet trong 3-4 h cho đến kiệt alcaloid. Bốc hơi dung môi n – propanol, cắn khô chứa morphin và các alcaloid phụ ở dạnh muối hydroclorid hòa tan nóng trong HCl 1N, để nguội, lọc, lắc với chloroforrm nhiều lần để loại tạp chất. Bay hơi hết cloroform. Lấy một thể tích thích hợp dịch chiết cô cách thủy đến khô. Hòa tan cắn bằng NaOH. Lắc nhiều lần với cloroform để loại alcaloid phụ.

Trung tính dịch chiết morphin bằng HCl tới pH = 7 rồi lắc với hh dung môi cloroform : isopropanol (3:1), sau kiềm hóa bằng NaHCO 3 4% tới pH 9 và lắc tiếp với hh dmôi trên. Gộp dịch chiết cloroform : isopropanol lại và lọc qua Na 2SO 4 khan. Cất thu hồi dung môi. Cắn morphin base hòa tan trong HCl 0,1N dư, chuẩn độ acid thưa bằng NaOH 0,1N, chỉ thị màu là đỏ metyl.

1ml HCl 0,1N tương ứng 28,53mg morphin base khan.

Ngoài ra, còn có thể định lượng morphin trong nhựa hoặc trong quả khô bằng các phương pháp khác.

– Phương pháp cân (theo Pfeifer): Cho morphin tác dụng với dinitrofluobenzen sẽ tạo tủa morphindinitrophenylete, lấy riêng tủa, sấy khô rồi cân.

– Phương pháp so màu (theo Kleischmitdt và Mothes). Dựa theo nguyên tắc chuyển morphin thành 2 – nitrosomorphine. 2 – nitrosomorphin sẽ cho màu đỏ đậm trong môi trường kiềm.

– Phân lập morphin bằng sắc ký hay điện di trên giấy, phun hiện màu bằng thuốc thử Dragendorff rồi đo mật độ quang, hoặc phân lập bằng sắc ký lớp mỏng, chiết lấy riêng morphin rồi định lượng bằng phương pháp so này hay quang phổ tử ngoại.

Thuốc phiện có tác dụng giảm đau rất tốt nhưng dùng lâu gây nghiện nên đã xếp thuốc vào thuốc độc bảng A nghiện.

Đối với hệ thần kinh trung ương, thuốc phiện có tác dụng lên vỏ não và trung tâm gây đau. Dùng liều nhỏ, lúc đầu gây cảm giác kích thích dễ chịu, thoải mái, sau làm mất cảm giác đau. Với liều cao gây ngủ. Có tác dụng lên trungtaam hô hấp và hành tủy làm cho nhịp thở thoạt đầu nhanh, nông, sau chậm lại. Khi bị ngộ độc có thể ngừng thở. Có tác dụng làm giảm kích thích ho.

Đối với bộ máy tiêu hóa: Liều nhỏ kích thích co bóp dạ dày, có thể gây nôn, liều cao có tác dụng chông nôn, khi uống làm giảm nhu động ruột nên dùng chữa ỉa chảy.

Morphin có tác dụng lên thần kinh trung ương nhất là vỏ não, ức chế trung tâm đau gây ngủ. Liều thấp kích thích hô hấp, liều cao hơn thì ức chế trung tâm này, liều cao có thể làm liệt hô hấp. Morphin cũng ức chế trung tâm ho nhưng kém hơn codein.

Codein ít độc hơn morphin, tác dụng giảm đau kém nhưng tác dung ức chế trung tâm ho mạnh nên được dùng làm thuốc chữa ho tốt. Lạm dụng thuốc sẽ bị nghiện.

Papaverin kích thích thần kinh ngoại biên, làm giảm co thắt cơ trơn, đặc biệt đối với dạ dày và ruột.

Noscapin không gây ngủ, co giật ở liều cao nên trong các thuốc phiện người ta thường loại bỏ nó đi; tuy vậy, đôi khi người ta cũng kết hợp với morphin để làm tăng tác dụng giảm đau đồng thời ngăn cản hiện tượnglamf liệt trung tâm hô hấp do morphin. Ngoài ra, noscapin được dùng để điều chế cotacnin có tác dụng cầm máu.

a/ Đối với quả chưa chích nhựa

– Dùng để chiết xuất morphin, đa phần morphin được chuyển thành codein.

– Chế cao toàn phần để làm thuốc thay thế cho nhựa thuốc phiện.

– Dùng làm thuốc giảm đau

b/ Quả đã chích nhựa (anh túc xác)

– Làm thuốc chữa ho, tả, lỵ, đau bụng, giảm đau. Dùng 4-6g/ngày dưới dạng thuốc sắc hay hãm.

Một phần được dùng làm thực phẩm cho người hoặc chim. Đa phần dùng để ép dầu. Dầu dùng để ăn, dùng trong công nghiệp sơn và dùng trong ngành Dược. Dầu dùng để chế dầu iod (lipiodol hoặc iodolipol) dùng làm thuốc cản quang khi chiếu các xoang trong cơ thể, chế thuốc xoa bóp, thuốc mỡ… Bã dầu dung làm thức ăn gia súc.

– Dùng làm thuốc giảm đau, thuốc ngủ, thuốc ho, chữa ỉa chảy. Nhựa thường dùng phối hợp với các vị thuốc dưới dạng cao đơn hoàn tán hoặc ở các dạng:

+ Bột thuốc phiện (10% morphin), uống liều 0,05g/lần và 0,2g/24h

+ Cao thuốc phiện (20% morphin) dùng liều 0,05-0,1g/24h

+ Cồn thuốc phiện (1% morphin), 56 giọt = 1g dùng 1-3g/24h

Nhựa thuốc phiện xếp loại độc A gây nghiện, không được dùng liên tục quá 7 ngày và phải rất thận trọng khi dùng cho trẻ em và người già.

– Dùng để chiết xuất alcaloid. Phần lớn việc sản xuất nhựa thuốc phiện hợp pháp dùng để chiết xuất morphin. Trên thế giới hàng năm cần hàng trăm tấn.

Morphin dùng làm thuốc giảm đau, chữa co giật mê sảng, động kinh. Thường dùng dưới dạng morphin hydroclorid để tiêm dưới da hoặc tiêm bắp. Liều tối đa 0,02g/1 lần và 0,05g/24h.

Việc tiêu thụ morphin không nhiều còn phần lớn dùng để điều chế các dẫn chất như codein, codetylin…

Codein dùng để chữa ho, dùng dưới dạng bột, viên, siro… codetylin cũng có tác dụng tương tự codein.

Papaverin dùng làm thuốc giảm đau dùng trong bệnh co thắt dạ dày, ruột, mật, co thắt tử cung trong khi đẻ, đe dọa xẩy thai, co thắt mạch máu… Papaverin dùng trên thị trường phần lớn được điều chế bàng PP tổng hợp.

Narcein và thebain ít được sử dụng.

Đôi khi được dùng làm thuốc giảm đau.

Heroin (= Diacetylmorphin) là chế phẩm bán tổng hợp từ morphin, là chất ma túy gây nghiện rất mạnh. Người bị nghiện sẽ suy sụp nhanh chóng về thể xác và tinh thần. Dùng liều khoảng 0,06g có thể gây chết người sau khi tiêm.

Copy xin vui lòng ghi nguồn duoclieu.edu.vn

Nơi Cây Thuốc Phiện Được Trồng Làm… Rau Sống

HTML clipboard

– Mảnh đất Quế Phong được mọi người ví von là “thủ phủ” thuốc phiện và các cơ quan chức năng đang nỗ lực chống lại cơn lốc ma tuý âm thầm len lỏi khắp các bản làng. Nhưng bên cạnh ‘cuộc chiến’ dai dẳng này, người dân vẫn âm thầm cất giữ hạt giống hoa anh túc với lý do như lãnh đạo huyện và xã nói: trồng để làm rau ăn sống!

Ghi nhận của chúng tôi, có rất nhiều hộ dân tại xã Tiền Phong, Tri Lễ và Đồng Văn (huyện Quế Phong, Nghệ An) vẫn công khai trồng cây thuốc phiện lấy lá làm rau và khi kết thúc mùa vụ thì dùng quả để lấy nhựa và nhiều mục đích khác…

Nhiều người dân tại bản Mường Him, Na Cày, Na Dến, Bản Phạp, Na Bón,…(xã Tiền Phong) cho chúng tôi biết, trên mỗi gian bếp của các gia đình người Thái, hầu hết có chứa rất nhiều hạt cây thuốc phiện.

Ban đầu bà con người Thái ở xã Tiền Phong chủ yếu là xin 1 đến 2 quả có hàng trăm hạt về trồng thử, lâu dần rồi lan truyền đi nhiều bản làng.

Có thông tin còn nói, nhiều nhà giữ những chùm quả cây thuốc phiện có thể gieo trồng được cả sào, thậm chí là cả héc ta.

Loài cây ‘chữa được bách bệnh’?

Bấy lâu, người dân ở vùng cao Nghệ An đã đồn thổi hoa anh túc là một “thần dược”. Và từ những tin đồn này, người dân càng tích cực trồng loại cây đã bị nhà nước cấm từ lâu…

Nhiều phụ nữ Thái kể lại rằng, sau khi sinh con mất nhiều máu nên chỉ cần lấy một ít nhựa đen bằng hạt thóc bỏ vào nước rồi uống thì sẽ lấy lại được sức khoẻ ban đầu.

Rất nhiều người còn dùng thuốc phiện màu đen để chữa các bệnh khác như rắn, rết cắn, đau bụng hay chữa lành những vết đau lâu ngày.

Bà Lương Thị Hòa (70 tuổi) kể lại: “Cách đây không lâu tôi phải đi mổ dạ dày, nhưng vết mổ vẫn chưa lành hẳn, thi thoảng lại đau nhức. Quá lo sợ, tôi lấy thử một ít thuốc phiện hòa với nước rồi bôi lên vết mổ. Từ khi làm như vậy chứng bệnh của tôi hết đau”.

Không riêng gì bà Hoà, ông Quang Văn Tâm (trú tại xã Tiền Phong) bị chứng đau bụng, uống rất nhiều loại thuốc nhưng không khỏi mà bệnh ngày càng nặng hơn. Ông Tâm cũng tìm đến nhựa thuốc phiện để giảm đau. Cuối cùng, ông nghiện luôn món ‘cơm đen’ này lúc nào không hay.

Anh Lương Văn Đ. kể cho chúng tôi nghe: “Mỗi khi có người đau bụng là cứ lấy lá hái về ăn, không những thế mà lá cây thuốc phiện còn ăn sống rất ngon. Đôi khi đó là món ăn không thể thiếu tại một số gia đình người dân tộc trong mỗi bữa ăn khi đến mùa anh túc”.

Cũng theo anh Đ., thì rất nhiều gia đình người Thái hiện nay đang tích cực trồng cây thuốc phiện để ngâm rượu uống, bởi theo họ, sau khi uống có thể làm tiêu tan mệt mỏi, chữa bệnh đau khớp, mỏi chân,…

Những bó quả thuốc phiện được phơi khô, hàng triệu hạt giống được cất giữ trên bếp của nhiều hộ gia đình người Mông và Thái dùng để chữa bệnh.

Tại xã Tiền Phong, lúc đầu chỉ có mốt số hộ gia đình trồng cây lấy nhựa làm thuốc và lấy lá làm rau sống. Nhưng do lá của cây anh túc ngon và lạ so với nhiều loại rau khác nên nhiều hộ gia đình đã xin giống về trồng. Cứ như vậy, trong suốt mấy năm qua, tại nhiều bản ở xã Tiền Phong có phong trào cất giữ giống cây thuốc phiện.

Chính quyền nói gì?

Mang những thông tin và hình ảnh ghi lại được hỏi lãnh đạo các xã, chúng tôi chỉ nhận được những cái lắc đầu từ chối: Địa phương không có hoa anh túc nhiều đến thế, có chăng, chỉ là một số hộ lén lút trồng cây thuốc phiện làm rau ăn sống!

Ông Ngân Văn Xuân, Chủ tịch UBND xã Tiền Phong: “Có một số hộ dân trồng cây thuốc phiện để làm rau sống”.

Ông Ngân Văn Xuân, Chủ tịch UBND xã Tiền Phong (huyện Quế Phong) chỉ thừa nhận: “Có một số hộ dân trồng cây để lấy ăn làm rau sống, khi chúng tôi phát hiện đã cho nhổ hết. Người dân đã lấy 1 hay 2 quả từ một số xã biên giới như Tri Lễ, Nậm Giải về để gieo trồng”.

Theo ông Xuân, xã vẫn biết người dân có trồng cây thuốc phiện xen lẫn với rau cải cúc để làm rau sống, nhưng họ ăn từ một đến vài hôm là… hết.

Còn ông Hà Sỹ Quế, Trưởng Công an xã Tiền Phong lại nói: “Tôi không ngờ là người dân còn cất giấu giống để trồng cây thuốc phiện nhiều đến thế. Có thể họ trồng lén lút trong trang trại nên không biết được. Sắp tới chúng tôi sẽ cho người đi kiểm tra”.

Ông Lương Văn Minh, Phó chủ tịch UBND huyện Quế Phong: ” Nó cũng giống như ma tuý cứ len lỏi khắp nơi và tồn tại như một… nét văn hoá”.

Thật ngạc nhiên khi lãnh đạo huyện Quế Phong nói rằng, người dân trồng cây anh túc như là ‘một nét văn hoá’ để giữ giống.

Ông Lương Văn Minh, Phó chủ tịch UBND huyện Quế Phong cho biết: “Tôi còn nhớ năm 2006, tại bản Pá Khốm, xã Tri Lễ giáp với huyện Tương Dương phát hiện một cách đồng thuốc phiện gần 2.000m2 được trồng xen kẽ với cây cải. Theo tôi thì dân trồng là chủ yếu để làm rau sống. Nó cũng giống như ma tuý, cứ len lỏi khắp nơi và tồn tại như một nét văn hoá”.

Ông Minh khẳng định, không có chuyện cạo quả để lấy nhựa.

Mảnh đất Quế Phong được mọi người ví von là “thủ phủ” thuốc phiện và các cơ quan chức năng đang nỗ lực chống lại cơn lốc ma tuý âm thầm len lỏi khắp các bản làng. Nhưng bên cạnh ‘cuộc chiến’ dai dẳng này, người dân vẫn âm thầm cất giữ hạt giống hoa anh túc với lý do như lãnh đạo huyện và xã nói: trồng để làm rau ăn sống!

Trong khi đó, ông Trưởng Công an xã Tiền Phong hé lộ: “Trên địa bàn xã hiện nay có 51 con nghiện, đã bắt đi cải tạo 13 đối tượng… “…

Quốc Huy – Hoàng Sang

Bài 2: Cảnh khó tin ở ‘thung lũng nàng tiên nâu’

Thật bất ngờ, loài hoa anh túc đang đua nhau khoe sắc ở một số xã dọc đường QL48, bên cạnh những ngôi nhà sàn truyền thống của đồng bào người Thái, người Mông ở mảnh đất rẻo cao huyện Quế Phong.

Vườn Cây Thuốc Phiện: Các Loại Và Giống Với Mô Tả, Cách Trồng, Phát Triển Và Chăm Sóc Trên Bãi Đất Trống

Cây thuốc phiện trong vườn phổ biến với những người làm vườn. Những bông hoa của nền văn hóa này, do màu sắc tươi sáng, sẽ trở thành vật trang trí cho bất kỳ khu vực ngoại ô nào. Anh túc chỉ nở hoa trong vài ngày, tuy nhiên, bằng cách gieo hạt, bạn có thể nhận được từ hai chục cây sẽ nở lần lượt, do đó trang trí địa điểm trong một tháng. Anh túc hoàn toàn không yêu cầu trồng và chăm sóc.

Anh túc (tên tiếng Latinh là Papaver) là một loài cây thân thảo thuộc họ Anh túc. Loại cây này hiếm khi được tìm thấy ở các vùng phía bắc. Các giống bao gồm cả cây hàng năm và cây lâu năm. Thân cây cao tới một mét. Thời kỳ ra hoa ngắn – cây nở hoa trong một hoặc hai ngày.

Các tính năng đang phát triển

Cây không ưa nhiệt độ không khí, chịu được cả nhiệt độ ấm và lạnh. Tốt nhất là gieo hạt vào đất tơi xốp. Cây cần được cung cấp ánh sáng tốt và ngăn chặn sự ứ đọng chất lỏng ở rễ.

Giống và giống

Có rất nhiều giống cây và giống cây trồng khác nhau về tuổi thọ, hình thành quả và đặc điểm bên ngoài.

Giống này có hoa màu trắng hoặc vàng. Các thân cây đạt chiều cao lên đến mười cm. Phát triển như một cây một đến hai năm tuổi.

Một loại cây anh túc trên núi cao, nó mọc ở các thung lũng của các con sông ở Siberia. Nó được đặc trưng bởi sự ra hoa sớm và dài. Thân cây đạt chiều dài 35 cm. Những bông hoa có màu trắng, vàng và cam.

Shirley Self-Seed (Đồng ruộng, Hoang dã)

Thân của giống này cao tới nửa mét, có lông tơ bao phủ. Hoa có đường kính tới 10 cm, có màu đặc trưng với nhiều màu sắc khác nhau. Shirley nở vào cuối mùa xuân, đầu mùa hè.

Phương đông

Giống lâu năm. Nó được coi là một trong những giống đẹp nhất. Nó đạt đến chiều cao một mét. Hoa có kích thước lớn và có màu đỏ tươi.Ngoài ra, có những phân loài được lai tạo nhân tạo có hoa với nhiều màu sắc và kết cấu.

Phân loài này còn được gọi là hoa mẫu đơn. Nó là một nhà máy hàng năm. Thân cây cao tới 90 cm. Những bông hoa to, kép, có hình dáng giống với hoa mẫu đơn. Hầu hết thường có màu hồng, nhưng có nhiều loại với nhiều sắc thái khác nhau.

Tiếng Iceland

Nó là một cây lâu năm. Hoa có nhiều màu: trắng, vàng, đỏ, hồng. Ra hoa bắt đầu vào tháng 5 và kéo dài suốt mùa hè, cho đến mùa thu.

Hạt thuốc phiện có chứa dược chất.

Codeine

Một chất dùng để chống ho. Có tác dụng giảm đau.

Papaverine

Chống co thắt; Nó được sử dụng để làm suy yếu giai điệu của các cơ trơn của cơ và các cơ quan nội tạng.

Được sử dụng trong y học như một loại thuốc giảm đau mạnh. Chiết xuất từ ​​nước ép của cây thuốc phiện.

Ngoài y học chính thức, anh túc, nhờ các đặc tính có lợi của nó, đã trở nên phổ biến trong y học dân gian. Cây được dùng làm thuốc giảm đau, giảm đau, chữa tiêu chảy, mệt mỏi và các bệnh khác của cơ thể.

Thôi miên

Hạt anh túc luộc được sử dụng như một loại thuốc thôi miên. Hạt được ngâm trong phích trong ba giờ. Cồn được uống trước khi đi ngủ.

Thuốc giảm đau

Bên cạnh thuốc ngủ, cây anh túc có tác dụng giảm đau mạnh. Hạt được thêm vào thực phẩm, nước ép của chúng giúp chữa đau đầu và đẩy nhanh quá trình chữa lành cơ thể sau chấn thương hoặc bệnh tật.

Các chất xơ thực vật có trong hạt điều hòa chức năng dạ dày, giảm táo bón, giúp giảm đau bụng và giảm tiêu chảy.

Khỏi mệt mỏi

Nước sắc từ hạt anh túc, trong số những thứ khác, giúp giảm mệt mỏi cơ thể.

Đối với chứng đau nửa đầu

Truyền thuốc phiện được sử dụng để chống lại chứng đau nửa đầu và đau đầu thường xuyên. Chứng đau nửa đầu được điều trị bằng cách truyền ba lần vào bên trong với thể tích 50 ml.

Tăng cường khả năng miễn dịch

Ăn hạt anh túc giúp tăng sức đề kháng của cơ thể, chống lại bệnh tật. Trong hạt có chứa kẽm, giúp sinh sản các tế bào bạch cầu và tăng cường khả năng phòng vệ của cơ thể chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn.

Với viêm phế quản và viêm thanh quản

Nước sắc từ cây anh túc, cỏ xạ hương và violet giúp làm loãng đờm. Một thìa hỗn hợp được đổ với nước sôi và ngâm trong mười phút.

Các chế phẩm dựa trên cây thuốc phiện có tác dụng cầm máu, do đó chúng được dùng để cầm máu.

Ung thư

Chiết xuất hạt được sử dụng trong ung thư học để ngăn chặn sự xuất hiện của di căn.

Chống đổ mồ hôi

Các chế phẩm dựa trên cây thuốc phiện làm giảm lượng mồ hôi dư thừa.

Ngoài công dụng chữa bệnh, cây thuốc phiện được sử dụng rộng rãi trong nấu ăn. Hạt có một hương vị cay và bổ sung cho các món ăn nấm và các loại nước sốt. Hạt cây thuốc phiện được sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất bánh và bánh kẹo: bạn có thể mua bánh có hạt cây thuốc phiện ở bất kỳ siêu thị nào.

Thiết kế cảnh quan

Do vẻ ngoài đẹp bất thường, hoa của cây được sử dụng trong thiết kế cảnh quan.Chúng sẽ là vật trang trí cho bất kỳ bãi cỏ hay khu vườn mùa hè nào.

Tinh dầu thu được từ hạt của loài cây này được sử dụng rộng rãi trong thẩm mỹ và được sử dụng để làm mặt nạ tự chế và kem dưỡng da.

Chống chỉ định sử dụng

Do chứa thuốc phiện, hạt có thể gây nghiện và có tác dụng phụ độc hại. Không khuyến khích sử dụng cây thuốc phiện trong thực phẩm không dung nạp cá nhân, cũng như nghiện rượu, bệnh gan và suy tim.

Trồng và để lại

Anh túc không yêu cầu nơi trồng và chăm sóc, tuy nhiên, tuân thủ một số quy tắc sẽ cho phép chúng phát triển tốt hơn và nở hoa nhanh hơn.

Cây thuốc phiện phát triển tốt nhất ở những nơi có đủ ánh sáng mặt trời. Hầu hết các giống yêu cầu đất màu mỡ, vì vậy đất cần được đào lên với phân trộn.

Ở những vùng có khí hậu ôn hòa, hạt được gieo vào mùa thu hoặc cuối mùa đông. Để gieo vào một ngày sau đó, hạt giống phải được giữ trong tủ lạnh trong hai tháng.

Trồng mùa xuân

Vào mùa xuân, việc trồng cây thuốc phiện được thực hiện sau khi tuyết tan và đất tan băng.

Trồng vào mùa thu là lựa chọn ưu tiên nhất. Đồng thời, cây phát triển mạnh và nhanh ra hoa hơn.

Anh túc có khả năng chịu hạn nên không cần điều kiện tưới nước đặc biệt. Vào đầu mùa sinh trưởng, hoa nên được tưới hai lần một tuần.

Bón phân cho cây bằng dung dịch Kemir Universal, cũng như bón bằng phân phức hợp trong thời kỳ ra hoa, có tác động tích cực đến sự tăng trưởng.

chuyển khoản

Không trồng lại anh túc trong vườn. Cây không mọc rễ ở cây con và có thể chết.

Cây không cần cắt tỉa thường xuyên, nhưng sau khi ra hoa, bạn nên cắt bỏ những phiến lá chết để giữ dáng.

Sau khi ra hoa

Đối với cây lâu năm, sau khi tàn lụi, khô héo nên cắt bỏ thân, lá. Phần mặt đất của cây bị cắt bỏ gần mặt đất.

Bệnh và sâu bệnh

Anh túc rất dễ bị bệnh nấm và vi khuẩn, cũng như bị sâu bệnh tấn công.

Bệnh thối rễ là một bệnh nấm ảnh hưởng đến nhiều loại cây trồng làm vườn. Do tác động của nó, các mô thực vật bắt đầu thối rữa. Để ngăn ngừa sự hình thành thối, hạt giống cần được xử lý bằng thuốc tím, và khử trùng đất bằng thuốc tẩy.

Bệnh phấn trắng là mối nguy hiểm lớn nhất đối với cây thuốc phiện. Nó có đặc điểm là xuất hiện hiện tượng nở hoa trắng trên thân và lá và dẫn đến cây chết. Nó được xử lý bằng dung dịch đồng oxychloride.

Dấu hiệu nhận biết thiệt hại là sự xuất hiện của các đốm đen giữa các gân lá. Các cây bị ảnh hưởng nặng sẽ chết trước khi hình thành hạt.

Một loài côn trùng ăn dịch cây là một loài gây hại nguy hiểm. Ngoài ra, nó có khả năng lây lan bệnh thực vật và gây ra các hình thành giống như mật.

con nhện nhỏ

Một loài ve có hại lây nhiễm hầu hết các loại cây trồng trên đất. Nó cắn phá các tế bào thực vật và ăn nhựa cây. Nó không chịu được độ ẩm cao, do đó, để ngăn chặn sự xuất hiện của nó, cây nên được phun bằng nước ấm.

Những khó khăn có thể xảy ra

Những khó khăn chính trong việc trồng anh túc vườn có thể là: khó khăn trong việc cung cấp cho đất đủ độ ẩm và chất dinh dưỡng, thiếu chăm sóc, diện tích trồng không phù hợp và trồng dày đặc.

Cây thuốc phiện phát triển tốt trên đất không bão hòa, đất tinh, nhưng chịu ẩm quá kém, do đó, để tránh cây bị chết, không nên để đọng nước ở rễ.

Thiếu chất dinh dưỡng trong đất

Việc nuôi cấy yêu cầu một loại đất tinh chế. Phát triển chậm khi không đủ chất dinh dưỡng, hoa có thể phát triển nhỏ và không đủ sáng.

Trồng dày đặc

Nếu trồng quá chặt, hoa sẽ nhỏ lại, ảnh hưởng đến diện mạo của vườn.

Chăm sóc kém

Hoa khô héo phải được loại bỏ kịp thời, nếu không sẽ xuất hiện vỏ hạt và bụi cây sẽ ngừng nở. Việc cắt tỉa sẽ kéo dài chu kỳ ra hoa của cây thuốc phiện.

Thu hái và bảo quản hạt giống

Thời điểm thu hạt đến sau thời kỳ ra hoa, khi quả nang ngả sang màu vàng. Hạt giống cần được bảo quản ở nơi thoáng mát.

Cây thuốc phiện nhân giống bằng phương pháp hạt. Sau một lần trồng cây trên trang web, chỉ cần để lại một vài hộp trên bụi khi thu hái, và mùa sau cây sẽ lại nảy mầm.

Theo hầu hết những người làm vườn, hoa anh túc là một vật trang trí tuyệt vời cho bất kỳ ngôi nhà nhỏ mùa hè nào và thực hiện chức năng trang trí tốt hơn bất kỳ nền văn hóa nào khác, trong khi hoàn toàn không khiêm tốn về mặt chăm sóc.

Đặc Điểm Thực Vật Và Phân Loại Cây Thuốc Phiện (Anh Túc)

Tên khoa học là: Papaver somniferum L.

Thuộc họ thuốc phiện – Papaveraceae.

Đặc điểm thực vật:

Cây thuốc phiện là cây thân thảo, sống hàng năm. Cây cao từ 0,8 – 1,5 m, thân mọc thẳng, ít phân nhánh. Lá mọc cách, các lá bên dưới có cuống ngắn, các lá bên trên không có cuống, mọc ôm vào thân cây, mép lá có răng cưa. Lá hình trứng dài và rộng, đầu lá nhọn, đoạn gần cuống tròn hoặc hơi hình tim. Mặt dưới lá có gân nổi rõ.

Hoa thuốc phiện to, mọc đơn độc ở đầu thân hay đầu cành, cuống hoa dài; đài hoa có 2 lá đài màu xanh rụng sớm khi hoa nở. Tràng hoa có 4 cánh, dài màu trắng hay tím hồng tuỳ thứ.

Quả nang hình cầu hoặc hình trứng, có núm ở đỉnh, cuống quả phình ra ở chỗ nối. Khi quả chín có màu vàng xám, hạt nhỏ và nhiều, giống hình thận, mặt hạt có vân hình mạng; hạt có màu xám, vàng nhạt hay xám đen tuỳ thứ.

Toàn cây có nhựa mủ trắng, để lâu chuyển sang màu nâu đen.

Cây thuốc phiện có nguồn gốc từ các nước Địa Trung Hải, dựa vào màu sắc của hoa và hạt; hình dáng, kích thước quả, người ta chia thuốc phiện thành các thứ sau:

Thứ nhẵn: hoa màu tím, quả hình cầu rộng, hạt đem tím; cây phân bố ở Trung Á.

Thứ trắng: hoa màu trắng, quả hình trứng, hạt trắng vàng nhạt; cây phân bố ở Ấn Độ, Iran.

Thứ đen: hoa màu tím, quả hình cầu ở phía dưới, hạt màu xám; phân bố ở châu Âu.

Thứ lông cứng: hoa màu tím; cuống hoa, lá phủ đầy lông cứng; cây mọc bán hoang dại ở Nam châu Âu.

Trong đó, thứ trắng được trồng để lấy nhựa, thứ đen lấy dầu. Thực tế, người ta lấy nhựa từ quả chưa chín, lấy dầu từ hạt quả chín già của 2 thứ này.

Hiện nay, người ta đã lai tạo được nhiều giống có hàm lượng alcaloid cao hơn.

Cây được trồng ở vùng khí hậu ôn đới và nhiệt đới nhưng do cây cho nhựa gây nghiện nên nhiều nước đã cấm trồng thuốc phiện tự do.

Một số nước trồng nhiều như Trung Quốc, Ấn Độ, Lào, Thổ Nhĩ Kỳ,…

Việt Nam có trồng ở 1 số tỉnh miền núi phía bắc, nay đã bị cấm trồng và khuyến khích bà con trồng các cây công nghiệp hay cây thuốc khác thay thế.

copy ghi nguồn : thuocbietduoc.edu.vn

Cách Trồng Và Chăm Sóc Cây Thuốc Lào

Ở Việt Nam vùng đất trồng thuốc lào chủ yếu là đất nhẹ, cát pha, tơ xốp, thoát nước, có độ pH 6,5 – 7. Ngoài ra những chân đất trồng thuốc lá, thuốc lào không dược luân canh những cây trồng trước đây là cây họ cà

Làm đất cần làm đất ải kỹ, cày sâu 25 cm, có thể làm luống hoặc rạch hàng tùy điều kiện từng nơi, từng vụ, nếu nơi mưa nhiều phải làm luống rộng 1 -1,2 m cao 0,2 – 0,25 m để thoát nước.

Thời vụ thuốc lào thường từ tháng chạp năm nay đến cuối tháng tư đầu tháng 5 năm sau, theo âm lịch. Gieo hạt vào khoảng tháng 11, làm đất tơi, trộn hạt với tro bếp gieo, tưới ẩm, khoảng 2-3 tuần hạt phát triển, cây con hai ba lá dài 3-4cm là nhổ trồng được.

Muốn thuốc lào ngon phải bón nhiều phân hữu cơ vi sinh và phân chất lượng tốt. Thuốc lào cho thu hoạch lá nên tránh sử dụng các loại phân bón hóa học và các chất bảo vệ thực vật làm ảnh hưởng tới chất lượng của thuốc. Phân bón Hữ Cơ Miền Trung là sản phẩm phân bón làm hoàn toàn từ phân lợn đã qua xử lý và được bổ sung thêm hàm lượng đạm ,lân, kali, các vi sinh vật có lợi và các thành phần trung vi lượng cần thiết, đáp ứng đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng cũng như đảm bảo an toàn chất lượng cho lá. Sử dụng Phân Hữu cơ Miền Trung cây sẽ phát triển mạnh, cho lá to dày, thơm hơn.

– Trước khi trồng bón lót vào đất trồng nhằm cung cấp thêm dinh dưỡng cho cây. Trung bình một sào trung bộ sẽ phải bón lót khoảng 40 – 50kg/sào, có thể kết hợp cùng với phân chuồng đã ủ hoai mục để bón lót

Mật độ trồng là một trong những khâu kỹ thuật quan trọng ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng lá thuốc, nếu mật độ quá thưa thì năng suất và phẩm chất kém, nếu trồng quá dày thì năng suất hơn nhưng phẩm chất lá lại kém, mật độ thích hợp là 22.000 – 25.000 cây /ha, khoảng cách 80 x 50 cm

– Khi cây thuốc đã bén rễ, phát triển, sử dụng bón phân hữu cơ miền trung 20 – 25kg/sào, tưới định kỳ cho cây, kết hợp thêm phân bón thúc bón thúc thêm phân đạm và kali nên sử dụng nên sử dụng đạm sun phát 7-9 kg và kali sun phát 6- 7 kg , không nên dùng kaliclorua vì sẽ ảnh hưởng xấu đến phẩm chất của lá thuốc . Nếu bón ít phân thì cây không phát triển được, lá ít, lá nhỏ lại mỏng, ngược lại đủ phân, bón đúng cách, cây thuốc nhiều lá, lá to, lá dày, cho chất lượng ngon.

– Đến khi sự phát chậm lại ta sẽ ngắt ngọn cây thuốc chỉ lấy đủ lượng lá cần thiết, bình thường lấy từ 17 đến 25 lá cho một cây. Trong thời gian này cần bổ sung dinh dưỡng cho cây, sử dụng dung dịch phân bón NPK bón thúc tập trung chăm sóc để cây cho lá to và dày. Trước khi cấm ngọn không quên chọn một số cây tốt, không ngắt ngọn để cho cây ra hoa để lấy hạt giống trồng trọng vụ sau.

Ngoài phân bón tốt, đủ lượng, đúng cách, đúng thời điểm, còn phải kể đến việc chăm sóc, theo dõi hàng ngày cho cây, như nhặt cỏ, bắt sâu, diệt bọ rầy, rất bận rộn như con mọn. Phải thường xuyên có mặt trên vườn thuốc để theo dõi cây, tránh trường hợp cây bị sâu hại phá hoại.

Cách bảo quản, thu hoạch thuốc lào:

Vào khoảng cuối tháng 4 đầu tháng 5 (âm lịch, đây là thời điểm lá thuốc lào dày và cứng nhất, các cây thuốc lào lá cụp xuống như những cái nơm úp trên đồng chính là mùa thu hoạch thuốc lào

Khi chín thuốc chín theo thứ tụ từ dưới lên trên của cây , từ ngoài vào trong của lá, thời tiết mưa nhiều và bón nhiều đạm sẽ kéo dài độ chín của lá, về hình thái, khi lá chín chuyển từ màu xanh sang màu vàng đều, gân lá màu trắng sữa, giòn, bẻ dễ gãy, lông rụng maytj lá trơn ánh ít dính , phía ngọn lá và 2 bên rủ xuống đầu ngọn lá bắt đầu khô.. Lá thuốc lào sau khi thu hoạch được thái nhỏ, hong khô và cho vào túi bóng gói kín để tránh bị ẩm mốc.

Nguyễn Thái