Xu Hướng 3/2023 # Quy Trình Kỹ Thuật Trồng Rừng Luồng # Top 3 View | Duhocaustralia.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Quy Trình Kỹ Thuật Trồng Rừng Luồng # Top 3 View

Bạn đang xem bài viết Quy Trình Kỹ Thuật Trồng Rừng Luồng được cập nhật mới nhất trên website Duhocaustralia.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

( Dendroclamus Membranaceus Munro)

Luồng là cây ưa sáng, mọc nhanh, thích hợp với nơi khí hậu nóng ẩm, có đặc trưng khí hậu như sau:

– Nhiệt độ trunh bình hàng năm từ 22-26 0C (mùa mưa từ 24-28 0 C)

– Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1600-2000mm, trong năm có mùa mưa tập trung từ tháng 04 đến tháng 10.

2. Địa hình: Độ cao tuyệt đối dưới 400m, độ dốc dưới 25 0

3. Đất đai: Độ dày tâng đất trên 60cm, đất ẩm, thoát nước, độ pHKcl của đất từ 3,8-7; thảm thực bì là cây bụi, cây gỗ; không trồng luồng trên những vùng đất ngập úng, đất mặn, đất phèn, đất đã bị đá ong hóa.

Có thể trồng luồng bằng Luồng bằng các loại giống như: hom gốc, hom thân, hom chét, hom cành chiết qua ươm giống đều cho tỉ lệ sống cao. Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể và quy mô trồng rừng luồng mà chọn hom giống cho phù hợp. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu trồng rừng với qui mô lớn và tạo cây con đồng đều, thuận tiện trong vận chuyển trong sản xuất hiện nay thường được sử dụng giống cành chiết qua ươm.

– Thời vụ tạo giống: Vụ Xuân từ tháng 1-3 và vụ Thu từ tháng 7-9

– Kỹ thuật tạo giống: Chọn cây 1-2 tuổi, khỏe mạnh, không bị bệnh, chặt phần thân để lại từ 80-100 cm. Đào đất quanh gốc đến hết phần thân ngầm, dùng dao sắc hoặc xà beng chặt đứt phần cuối thân ngầm dính với cây mẹ (lưu ý không bị dập thân ngầm và chồi ngủ), chặt rễ để lại 2-3cm. Sau khi giống gốc được tách ra khỏi cây mẹ có thể mang đi trồng ngay hoặc giâm tạm thời vào nơi râm mất hoặc vùi gốc vào bùn đặc thêm 1-2 tuần, khi gốc đã bắt đầu nảy lá là đem trồng.

– Thời vụ tạo giống: Vụ Xuân từ tháng 1-3 và vụ Thu từ tháng 7-9

– Kỹ thuật tạo giống: Chọn các gốc chét từ 8-12 tháng tuổi, đường kính trên 2cm, không bị sâu, bệnh. Dùng dao sắc chặt sát phần tiếp giáp với thân cây mẹ sao cho không dập gốc và mắt cua. Chét sau khi chặt có thể trồng ngay hoặc ươm khi ra rễ rồi đem trồng.

– Tạo hom thân: Chọn cây luồng từ 9-15 tháng, thân màu xanh thẫm hoặc màu xanh lá mạ, đường kính từ 6-10cm, cây khỏe, không bị bệnh, hoặc cây bị khuy, gốc cành có vành rễ khí sinh. Chặt mỗi đoạn hom gồm 1 dóng và 2 đốt, phần dưới chặt vát nhọn, phần trên chặt bằng, nếu có cành chặt cành để lại 1 đoạn dài từ 10-15cm, sau đó đem đi trồng ngay hoặc đưa về ươm trong vườn.

– Ươm hom thân:

+ Ươm theo hàng dọc mỗi luống ươm 2-3 hàng, hàng cách hàng 40cm, hom cách hom 5cm. Dùng cuốc rạch thành những hàng dọc theo chiều dài luống sao cho sau khi đặt hom luồng vẫn thấp hơn mặt luống từ 7-10cm.

+ Bón lót phân chuồng hoặc phân xanh ủ hoai từ 2-3kg/m 2

+ Khi ươm cho đất nhỏ xuống đáy rạch, đặt hom luồng nằm ngang, cho cành lọt dưới đất, 2 hàng cành hoặc mắt cua nằm sang hai bên. Đặt hom xong, lấp đất vào rạch dậm chặt, phủ lớp đất mỏng lên trên dày từ 5-7cm. Tiếp đó dùng rơm, rạ phủ 1 lớp dày từ 3-5cm lên trên, sau đó tưới nước.

+ Làm giàn che cho cây ươm với tỷ lệ che sáng 50%. Độ cao của giàn che từ 1,8-2,0m, để thuận lợi cho việc chăm sóc cây ươm.

+ Thường xuyên tưới nước đủ ẩm, làm cỏ và phòng bệnh cho cây ươm.

+ Tiêu chuẩn cây giống luồng từ hom thân khi xuất vườn: Hom đã có thế hệ măng và có lá đầy đủ, rễ phát triển khỏe, dài trên 15cm.

– Cây mẹ lấy cành là những cây luồng sinh trưởng tốt không bị sâu, bệnh và không bị khuy, tuổi cây mẹ từ 8-12 tháng.

– Chọn cành chiết có đường kính phần sát đùi gà ≥ 1cm, thân cành có màu xanh thẫm, bẹ mo phía trên đùi gà đã rụng nhưng còn vết hơi trắng. Chọn cành có đùi gà to, mắt cua không bị sâu thối, có nhiều rễ khí sinh.

– Thời vụ chiết cành: Vụ Xuân từ tháng 1-3 và vụ Thu từ tháng 7 đến tháng 9. Không nên chiết cành khi trời lạnh (nhiệt độ dưới 20 0C) hoặc trời quá nóng (nhiệt độ trên 35 0 C).

– Kỹ thuật chiết cành:

+ Phát bớt ngọn cành, để lại khoảng 3 dóng (30-40cm). Chỉ sử dụng 1/3 số lượng cành hiện có trên cây mẹ để chiết, thường dùng những cành tập trung phía dưới gốc. Dùng dao sắc tách cành chiết, chừa lại 1/5 diện tích mấu cành sao cho không dập các chồi ngủ (mắt cua) ở đùi gà.

Cành chiết được bó ở gốc cành bằng hỗn hợp bùn ao với rơm băm nhỏ (2 bùn ao + 1 rơm), trọng lượng bầu khoảng 200-250 g. Bọc kín bầu bằng nilon rộng 20-25cm, dài 25-30cm, buộc chặt 2 đầu để giữ ẩm. Sau 15-25 ngày cành chiết ra rễ, chọn những cành chiết có rễ màu vàng nhạt cắt về ươm tại vườn. Nếu chưa kịp ươm thì bảo quản cành chiết nơi râm mát, phủ cát hoặc rơm rạ và tưới nước đủ ẩm.

– Ươm các cành chiết trong vườn ươm:

+ Vườn ươm phải bằng phẳng, đất thịt hoặc đất thịt nhẹ, gần nguồn nước sạch, tiện đường vận chuyển. Luống ươm rộng 1.0-1,2m, bón lót 1-3 kg phân chuồng hoai/m 2.

+ Cành chiết sau khi được cắt về tiến hành vệ sinh cành nhánh thứ cấp, bóc bỏ vỏ bầu. Cành được giâm theo rạch cự lý 25x40cm hoặc 25×30 cm. Đặt cành nằm nghiêng một góc 60 0 so với mặt luống.

+ Chèn chặt gốc cành giâm, sau đó lấp đất vào rạch cho bằng mặt luống. Làm giàn che cao 1,8-2,0m so với mặt luống. Thường xuyên tưới nước, làm cỏ, phá váng, bón thúc bằng phân chuồng hoai hoặc NPK chuyên luồng, hòa 100-200g/5 lít nước và tưới cho 1m 2.

+ Giảm dần lượng nước tưới để cho cây con thích nghi với điều kiện sống khi trồng: 10 ngày đầu tiên tưới đều 1 ngày/1 lần, 5 lít/m 2. Sau 10 ngày thì cứ 4-5 ngày tưới 1 lần, trên một tháng 10-20 ngày tưới một lần, mỗi lần tưới 10 lít/m 2.

+ Sau 8-12 tháng, khi cây giống có măng thế hệ 2 tỏa lá xanh tốt, không bị sâu bệnh thì có thể xuất vườn.

+ Lựa chọn những cây giống đủ tiêu chuẩn xuất vườn, dùng xà beng bứng đào gốc (lưu ý không làm dập gốc và mắt cua). Phát bỏ bớt cành ngọn, để lại chiều cao khoảng 60cm. Dùng hỗn hợp bùn ao và rơm quấn quanh gốc và bao bọc bộ rễ đảm bảo cây giống có tỉ lệ sống cao và vận chuyển không bị khô.

1. Phương thức và mật độ trồng

a. Trồng rừng thuần loài: Áp dụng cho rừng sản xuất nguyên vật liệu; mật độc trồng từ 200-250 bụi/ha (Tùy thuộc vào cấp đất để lựa chọn mật độ trồng cho phù hợp), cự ly cây cách cây 5m; hàng cách hàng 8-10m.

b. Trồng rừng hỗn giao áp dụng cho rừng sản xuất và rừng phòng hộ:

+ Trồng rừng hỗn giao theo hàng áp dụng cho rừng sản xuất: Mật độ trồng 600 cây/ha trong đó 200 bụi luồng/ha + 400 cây gỗ/ha (Cự ly Luồng cây cách cây 5m, hàng cách hàng 10m. Keo tai tượng cây cách cây 2,5 m; hàng cách hàng 10m).

+ Trồng rừng hỗn giao theo hàng áp dụng cho rừng phòng hộ: Mật độ trồng 660 cây/ha trong đó có 165 bụi luồng/ha + 330 cây Keo tai tượng/ha + 165 cây gỗ bản địa/ha (Cự ly luồng cây cách cây 5m, hàng cách hàng 12m; keo tai tượng cây cách cây 2,5 m, hàng cách hàng 12 m; cây gỗ bản địa cây cách cây 5m, hàng cách hàng 12m).

2.1. Trồng vào đầu mùa mưa cho đến trước khi kết thúc mùa mưa 1 tháng

– Vụ Xuân: tháng 1 đến tháng 3

– Vu Thu: Tháng 7 đến tháng 9

2.2. Trồng vào những ngày thời tiết râm mát, đất đủ ẩm; không trồng vào lúc trời nắng to hoặc mưa to.

3.1. Xử lý toàn diện: áp dụng cho trồng rừng thuần loài, trồng theo đám, trồng hỗn loài theo hàng , không được đốt.

3.2. Xử lý cục bộ:

a. Trồng bao đồi: Dưới chân đồi phát băng rộng 6m chạy vòng quanh đồi, phát và dọn tất cả các cây trong lòng băng, không được đốt.

b. Trồng rừng theo băng: Băng chặt rộng 6m, băng chừa rộng 10m; phát dọn tất cả các cây trong lòng băng chặt, không được đốt; loại bỏ những cây gỗ có chiều cao trên 6m trong băng chừa.

– Phải chuẩn bị đất xong trước khi trồng 1 tháng

– Phương pháp làm đất cục bộ theo hố

– Cuốc hố kích thước 60x60x50cm

– Lấp hố và bón phân: Lấp đất 2 phần 3 hố bằng lớp đất mặt nhỏ mịn; trộn đều đất trong hố vói một trong các loại phân có thứ tự ưu tiên từ 10 kg đến 20 kg phân chuồng hoai hoặc 1 kg đến 2 kg phân vi sinh hoặc 0,5 đến 1kg phân NPK.

– Vận chuyển và bảo quản giống: Cắt bớt phần ngọn của các thế hệ mới, chừa lại 50-60cm; vận chuyển đi xa phải bó bầu bằng vật liệu sẵn có tại địa phương (như rơm, bẹ chuối,…); không được để giống bị dập, vỡ bầu đất hoặc bị héo; nếu chưa trồng được ngay phải tập kết giống nơi râm mát, phủ một lớp đất mỏng và tưới giữ ẩm

– Kỹ thuật trồng: Dùng cuốc xới đất giữa hố lên, đặt bầu ngay ngắn, bóc tách vỏ bầu rồi lấp đất kín bầu và lèn chặt xung quanh. Dùng lá cây, cỏ khô (sản phẩm khi xử lý thực bì) phủ xung quanh gốc để giữ ẩm.

Phải kiểm tra trồng dặm cây chết, đảm bảo độ đồng đều. Đến vụ trồng sau nếu tỷ lệ cây chưa đạt yêu cầu tiếp tục trồng dặm bằng cây giống phù hợp.

IV. CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ BẢO VỆ

Áp dụng phương thức khai thác chọn từng cây, chỉ được phép khai thác trăng khi rừng bị khuy loạt hoặc rừng tàn kiệt để trồng loài cây khác đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Rừng luồng được khai thác vào mùa khô (từ tháng 10 đến tháng 1 năm sau).

3. Cường độ và chu kỳ khai thác

– Luân kỳ khai thác từ 1 đến 2 năm tùy theo trình độ thâm canh

– Nếu luân kỳ 1 năm thì cường độ chặt không quá 30% số cây trong bụi (chặt 100% số cây tuổi 5 trở lên, 40-50% cây tuổi 4 và 30% cây tuổi 3 trong bụi).

– Luân kỳ 2 năm thì cường độ chặt dưới 40% số cây trong bụi (chặt 100% số cây tuổi 5 trở lên, 60-80% cây tuổi 4 và 50-60% số cây tuổi 3 trong bụi).

+ Giúp Chủ rừng quản lý được số lượng cây và chất lượng cây có trong bụi hàng năm, từ đó xác định lượng cây đến tuổi 4 và 50-60% số cây tuổi 3 trong bụi).

+ Cách đánh dấu: Mỗi năm nên thực hiện 1 lần trong khoảng thời gian từ tháng 10 đến tháng 12 khi măng phát triển hoàn thiện thành cây luồng. Khi đánh dấu cần ghi rõ số thứ tự của cây trong bụi và năm cây mọc.

4.2. Bài cây khai thác

+ Khi bài cây nên chọn những cây mọc giữa bụi để khi khai thác giúp tránh khỏi việc khó khai thác cây sau này do bị chắn bởi các măng mọc mới xung quanh.

+ Cách bài cây: Dùng sơn đỏ đánh dấu gạch chéo (x) lên thân cây cần khai thác. Độ cao đánh dấu nên cách mặt đất khoảng 1,3m để dễ nhận biết.

– Dọn vệ sinh bụi luồng trước khi khai thác bằng cách chặt bỏ các cây bụi và cành quanh gốc luồng để thuận lợi khi khai thác luồng

– Chiều cao gốc chặt khoảng 7cm; không được làm ảnh hưởng đến cây khác.

– Phải thu dọn cành nhánh mang ra khỏi rừng

– Rừng sau khi khai thác phải được nghiệm thu, bàn giao giữa bên thi công và chủ rừng, đóng cửa rừng.

– Chủ rừng hướng dẫn kỹ thuật chặt cây cho những người khai thác và giám sát thường xuyên để đảm bảo chặt đúng cây đã bài, chặt đúng kỹ thuật và an toàn lao động.

6. Chăm sóc rừng sau khai thác

6.1. Phát dọn vệ sinh rừng luồng

+ Rừng sau khi khai thác phải tiến hành cho chăm sóc ngay; phải chăm sóc xong trước tháng 2 năm sau.

+ Dùng dao sắc phát cây bụi, dây leo trong rừng luồng; đồng thời sửa lại gốc chặt cho đúng yêu cầu, chặt vệ sinh các cây luồng bị sâu bệnh đem ra khỏi rừng nhằm hạn chế sâu bệnh và hiện tượng nâng gốc của bụi luồng.

+ Cuốc xới đất xung quanh theo hình vành khuyên rộng 1m, sâu 20-25cm, cách gốc luồng từ 15-25cm. Giúp cho đất tơi xốp và có thể phá được tổ của cá loài sâu hại như vòi voi trú qua đông trong đất.

+ Bón phân nhằm bổ sung dinh dưỡng thiếu hụt để cây luồng hấp thu sinh trưởng và phát triển tốt, lượng phân NPK từ 1-2kg/bụi.

Cách bón phân: Sau khi đã thực hiện xong xới xáo đất, tiến hành đào rãnh rộng 25cm, sâu 20cm, (hoặc từ 5-10 hố rộng 30cm, sâu 20cm) xung quanh bụi luồng. Rải đều phân xuỗng rãnh hoặc hố rồi lấp kín đất, sau đó phủ lá lên trên để giữ ẩm.

Quy Trình Kỹ Thuật Chăm Sóc Cây Lan Rừng

Ngày đăng: 2016-01-23 07:44:54

Những năm gần đây, chơi lan là một thú chơi tao nhã của những người yêu hoa. Tuy nhiên, người yêu hoa lại muốn hướng tới một giò lan phong cách tự nhiên, hoang dã và không gì khác là lan rừng. Tuy nhiên, khi mua về nuôi trồng trong môi trường nhà thì gặp rất nhiều vấn đề như không phát triển, héo rũ, không ra hoa… Vì vậy, chúng tôi xin giới thiệu bí quyết thuần dưỡng và chăm sóc lan rừng.

Theo kinh nghiệm dân gian, muốn cho lan sinh trưởng tốt môi trường thuận lợi nhất cho lan bám vào cây tươi nơi thoáng gió, ít ánh sáng chói. Vì vậy, khi lan đưa vào trồng trong chậu cần chăm sóc từ từ cho cây quen dần, không bón thúc phân bón hóa học quá sớm. Lúc ấy lan rừng cần bóc cả vỏ gỗ mục (loại lan đang sống) bó lại để nơi thoáng mát, ngày tưới vài ba lần bằng cách phun sương đều cả lá thân rễ. Chăm sóc cho lan 1 tháng rồi chiết thành nhánh trồng vào giò. Chú ý lót giò bằng mùn cưa hay xơ dừa đều không được nén chặt. Tránh để ánh nắng gay gắt, thỉnh thoảng đưa lan ra ngoài trời đềm. Chơi lan không nên bón nhiều phân hóa học, chỉ cần đủ nước, ánh sáng và không gian phù hợp là cây phát triển tốt.

Khi muốn lan ra hoa bất thường, vào dịp tết chẳng hạn, thì bón phân qua lá dành riêng cho lan. Song cần rất hạn chế bón thúc cho hoa vì sau mỗi đợt bón như vậy cây sẽ yếu sức. Tốt nhất là cách hai tháng lại thay lót giò 1 lần bằng xơ dừa mạt cưa. Hoa tàn thì cắt ngay cuống lá để tập trung dinh dưỡng nuôi cây lại sức. Tứơi nước nhẹ đều đặn ngày vài ba lần là cây sống khỏe không cần bón phân.

Cách thức chăm sóc lan rừng

Một trong những đặc điểm sinh học đặc trưng của lan- loài cây khó tính là o ử chỗ có khả năng chịu cớm cao, ưa ẩm và bóng râm nhưng nếu thiếu ánh sáng cũng giảm năng suất và phẩm chất. Còn bị ánh nắng trực tiếp nhất là nắng quá chiều sẽ gây lụi tàn nhanh chóng mặc dù vẫn được cung câp đầy đủ nước và khoáng hòa tan.

Phòng ngừa tác hại của nắng hạn đối với lan, ta cần chủ động tiến hành một số biện pháp sau:

Đối với phong lan: Không để cho nắng trời trực tiếp chiếu vào giỏ, bụi lan và toàn bộ giá thể (lồng lan), đặc biệt “kỵ” với nắng quái chiều và gió Tây (gió Lào). Nếu trồng đại trà thì phải làm giàn che bằng lưới nilon có lỗ để lan vẫn quanh hợp được. Chú ý phun tưới (tốt nhất là phun sương mù nhân tạo) cho tòan bộ cây và giá thể theo kinh nghiệm “2 ướt 1 khô” trong ngày đó là vào các thời điểm trước bình minh và sau hoàng hôn. Lượng nước vừa đủ để làm mát cây, ướt rễ và dự trữ. Phun vấy xối xả sẽ làm thất thoát chất khoáng nuôi cây.

Đối với địa lan: Chăm sóc như đối với phong lan, cần chú ý đảm bảo đất nền tơi xốp, nhiều mầu ở thể hữu cơ đang hoai mục là tốt nhất. Nên bổ sung từ 10-20% vụn gỗ mục (cả vỏ), 10-20% (theo khối lượng tổng thể) các mẩu than gỗ nhỏ luôn ẩm (nhưng không ướt sũng) để nhử rễ ăn ra mà ta quen gọi là hồ rễ. Tránh gió khô, gió lỳa qua phần nổi của cây. Làm mát đất bằng phun tưới nước loang theo bóng tán. Cần loại bỏ ngay những lá già (đã úa vàng) đẻ ngăn chặn sâu bệnh bội nhiễm, tỉa các cành khô, rễ đã hết chức năng hấp thụ hơi nước và cộng sinh với vi khuẩn cố định đạm nuôi cây.

Không nên dùng NPK- loại dùng cho cây hoa màu, cây lương thực để bón cho lan. Để cây tươi lâu đẹp bền, hoa sai thắm màu, hương đậm có thể thúc cho lan (phun tưới toàn bộ giá thể) nước gạo mới vo, nước ngâm tro hoai và rắc xỉ than (nguồn phân vi lượng tổng hợp). Nếu có điều kiện lấy bông (hoặc vải bông cotton) nhúng vào dung dịch glicerin 10- 15% cuốn vào cổ rễ để giữ ẩm.

Làm Nông

TIN TỨC KHÁC :

Quy Trình Kỹ Thuật Trồng Dưa Leo

Dưa leo hay dưa chuột ( Cucumis sativus) là một cây trồng phổ biến trong họ bầu bí Cucurbitaceae, là loại rau ăn quả quan trọng, nó được trồng lâu đời trên thế giới và trở thành thực phẩm của nhiều nước.

Ở Việt Nam dưa leo được trồng quanh năm ở những vùng có khi hậu mát mẻ như Lâm Đồng, Mộc Châu. Những vùng khác trồng được quanh năm chỉ trừ những tháng quá lạnh hoặc quá nóng.

Dưa leo được sử dụng như một loại rau ăn quả, trong các món salad, có nhiều tác dụng tốt cho sức khỏe cũng như làm đẹp. Một số tác dụng của dưa leo như: Bù nước và vitamin bổ sung cho cơ thể, hỗ trợ tim mạch, bổ xung kali, phục hồi thị giác, ngăn ngừa ung thư, ổn đinh huyết áp, tốt cho tiêu hóa, tốt cho thận, hỗ trợ giảm cân, giảm cholesterol…

Thành phần dinh dưỡng có trong 100 g dưa leo:

Cây dưa leo cho năng suất lớn và thu hoạch hàng ngày trong thời gian dài. Năng suất dưa leo có thể đạt 55-80 tấn/ha/vụ, cho hiệu quả kinh tế từ 200-270 triệu/ha/vụ tùy vào, giống, điều kiện thâm canh và thời điểm gieo trồng. Được mùa, được giá sẽ cho hiệu quả rất cao.

I. Điều kiện ngoại cảnh

Nhiệt độ thích hợp cho dưa leo sinh trưởng là 20-30ºC.

Yêu cầu độ ẩm đất của dưa leo rất lớn vì chịu hạn yếu, thiếu nước cây sinh trưởng kém và tích lũy chất cucurbitaxin làm trái trở nên đắng. Tuy nhiên ẩm độ không khí cao lại làm cho bệnh đốm phấn phát triển mạnh.

II. Biện pháp kỹ thuật

1. Giống

Hiện nay Công ty TNHH Phát triển Nông nghiệp Việt Á có đầy đủ, đa dạng và phong phú các giống dưa từ chịu lạnh, chịu mát đến lạnh và chịu mát đến nóng, kháng bệnh tốt, thích nghi rộng đáp ứng nhu cầu trồng sớm, trồng chính vụ hoặc có thể trồng muộn cho nông dân lựa chọn.

Nhóm giống dưa leo có khả năng chịu lạnh: Dưa chuột ta VA.77

Nhóm giống dưa leo có khả năng chịu từ mát đến lạnh: Dưa nếp lai F1 VA.67, Dưa leo lai F1 Xuân Yên VA.68, Dưa nếp lai F1 VA.69, Dưa leo siêu trái F1VA.868, Dưa leo siêu trái F1 VA.848

Nhóm dưa leo có khả năng chịu từ mát đến nóng: Dưa leo Nhật F1 VA.66, Dưa leo xanh F1 VA.789, Dưa leo xanh F1 VA.765, Dưa leo xanh F1 VA.103, Dưa leo xanh F1 VA.108, Dưa leo xanh F1VA.118, dưa leo F1 Napoli VA.7

Nhóm dưa leo có khả năng chịu nóng: Dưa leo xanh F1VA.118

2. Thời vụ

Ở Việt Nam dưa leo có thể trồng hầu như quanh năm. Riêng ở miền Bắc chỉ ngừng sản xuất dưa leo trong 1-2 tháng rét lạnh. Thời vụ gieo trồng dưa leo ở miền Bắc như sau:

Vụ Xuân: Gieo trồng từ 15/2 đến 15/4. Sử dụng các nhóm giống ưa mát và chịu nóng: Dưa nếp lai F1 VA.67, Dưa leo lai F1 Xuân Yên VA.68, Dưa nếp lai F1 VA.69, Dưa leo siêu trái F1VA.868, Dưa leo siêu trái F1 VA.848

Vụ Hè: Gieo trồng từ 15/5 đến 15/7. Sử dụng các nhóm chịu nóng: Dưa leo xanh F1 VA.118,

Vụ Thu: Gieo trồng từ đầu tháng 9 đến 15/10. Sử dụng các giống thuộc nhóm chịu nóng và ưa mát như Dưa leo Nhật F1 VA.66, Dưa leo xanh F1 VA.789, Dưa leo xanh F1 VA.765, Dưa leo xanh F1 VA.103, Dưa leo xanh F1 VA.108, Dưa leo xanh F1VA.118, dưa leo F1 Napoli VA.7

Vụ Đông: Gieo trồng từ 15/12 đến 30/1. Chủ yếu sử dụng các giống dưa chịu rét như Dưa chuột ta VA.77

3. Kỹ thuật trồng

Chọn đất: Dưa leo có thể sinh trưởng trên nhiều loại đất khác nhau. Tuy nhiên khi trồng dưa cần chọn đất chủ động tưới tiêu; đất có tầng canh tác dày, tơi xốp, tốt nhất là đất thịt nhẹ, đất cát pha…

Làm đất: Do dưa leo có bộ rễ chùm phát triển kém, không ăn sâu nên cần làm đất kỹ, tơi xốp, sạch cỏ dại, lên luống cao 30 cm, rộng 1 – 1,2 m, rãnh luống rộng 30 cm.

Lượng hạt giống để gieo cho 1000 m ²: 35 – 70 g thời vụ và tùy giống.

Gieo ươm hạt: Có thể gieo ươm hạt trên khay bầu hoặc gieo trực tiếp trên ruộng với 1 – 2 hạt/hốc.

Hạt trước khi gieo cho ngâm nước, thời gian ngâm khoảng 5 – 6 tiếng, sau đó vớt ra đãi sạch rồi đem ủ bằng khăn ẩm. Khi hạt đã nứt nanh, nảy mầm 70-75% thì đem gieo. Gieo trên khay bầu 1 hạt/bầu. Gieo trực tiếp trên đồng ruộng gieo 1-2 hạt/hốc, sau này để lại 1 – 2 cây. Giống lai F1 để 1 cây. Hạt gieo 2 hàng trên luống với khoảng cách 70 – 90 cm, mỗi hốc cách nhau 35 – 40 cm. Phân bón lót được bỏ vào hốc trước khi gieo/trồng, đảo đều và lấp một lớp đất nhẹ. Hạt gieo sâu 1 – 1,5 cm, rắc một lớp đất mịn lên trên sau đó phủ một lớp trấu hoặc rơm dạ lên trên trước khi tưới ẩm lên hạt.

Lưu ý: Nếu phủ rơm rạ, khi hạt mọc lên thì bóc bỏ rơm ra. Nếu gieo ươm cây con bằng khay bầu thì khi cây được 2-3 lá thật có thể trồng trên đồng ruộng vào ngày mát hoặc chiều mát.

4. Phân bón và chất phụ gia

Lượng phân bón sử dụng cho 1 sào: Phân chuồng hoai mục: 400 kg; Đạm Urê: 12 -15 kg; Lân super: 15 – 20 kg; Kali: 7 – 8 kg; Vôi bột: 20 kg/sào.

Bón lót: Vôi bột rắc đều lên mặt ruộng trước khi lên luống. Toàn bộ phân chuồng + lân, bón tập trung theo rạch, trước khi gieo trồng phủ đất kín phân chuồng rồi đặt hạt hoặc bầu lên trên.

Bón thúc: Phân đạm + kali chia làm 3 lần:

Lần 1: Khi cây có 3 – 4 lá thật (sau mọc 7 ngày) bón 3 kg đạm urê hoà với nước phân chuồng tưới cho cây.

Lần 2: Khi cây sinh trưởng mạnh đến trước khi ra hoa (lúc này có 9 – 10 lá thật tức là sau gieo trồng 18 – 20 ngày) bón: 5 kg đạm urê + 4 kg kali trộn đều bón theo rạch cách gốc 6 – 10 cm kết hợp xới xáo, làm cỏ, vun gốc cho cây.

Lần 3: Khi cây bắt đầu ra quả (lúc này có từ 12 – 14 lá thật là thời kỳ thu lứa quả đầu tiên tức là sau trồng 36 – 38 ngày), tiến hành bón 3 kg đạm urê + 2 kg kali trộn đều bón theo gốc, bón cách gốc 7 – 10 cm rồi xới xáo, vét rãnh vun cao cho cây.

Sau lần bón thúc 3 cứ mỗi lần thu quả tưới nước phân chuồng có hoà 0,5 – 1 kg phân đạm/sào và cứ tưới như vậy cho đến lúc thu quả xong.

5. Chăm sóc

Tiả dặm: Khi cây mọc được từ 2 – 3 lá thí tiến hành tỉa, dặm những chỗ mất khoảng.

Xới xáo làm cỏ: 3 lần kết hợp cùng các đợt bón phân.

Lần 1: Khi cây có 3 – 4 lá thật tiến hành xới xáo nhẹ và vun gốc nhẹ.

Lần 2: Khi cây có 9 – 10 lá thật sau khi bón thúc tiến hành xới xáo, làm cỏ kết hợp vét rãnh, vun cao cho cây.

Lần 3: Khi cây có quả tiến hành bón phân kết hợp với xới, làm cỏ, vun gốc.

Tưới nước: Dưa leo là cây đòi hỏi tương đối nhiều nước, từ sau khi cây mọc đã phải tưới nước cho cây.

Cách tưới: Giai đoạn cây con có 3 – 4 lá thật đến 9 – 10 lá thật tưới bằng thùng ô doa hoặc gánh nước tưới, nếu trời nắng, khô hanh tưới một ngày 2 lần vào sáng sớm và chiều mát.

Giai đoạn từ bắt đầu ra hoa đến có quả: Nên sử dụng phương pháp tưới ngấm nước theo rãnh. Cứ mỗi tuần tháo nước vào rãnh cho ngập lưng rãnh 1 lần để đất luôn đủ ẩm cung cấp nước cho cây.

Làm giàn: Việc làm giàn đối với cây dưa leo góp phần tăng năng suất, tăng phẩm chất quả, giảm bệnh hại… Làm giàn khi cây cao khoảng 30-35 cm, làm giàn kiểu chữ A cao. Một sào cần từ 1400 – 1600 cây dèo cao 2 m. Cứ mỗi gốc cây cắm 1 cây dèo đứng, 1 giàn có từ 2 – 3 nẹp ngang. Do thân dưa leo vươn lên rất nhanh nên phải buộc cây vào giàn dọc theo cây dèo, cứ 2 – 3 ngày buộc 1 lần. Làm giàn tốt góp phần làm tăng năng suất từ 20 – 30%.

6. Phòng trừ sâu bệnh

Sâu hại và biện pháp phòng trừ

Biện pháp phòng trừ: Bắt thủ công hoặc phòng trừ bằng Basudin 10H, Vibam 5H, 10G rắc xung quanh gốc hoặc xử lý trước khi gieo.

Sâu vẽ bùa (Ruồi đục lá):Sử dụng các loại thuốc như: Altach 5EC, Cyper 25EC, Vertimex 1.8EC, Trigard 100SL. Nên thường xuyên thay đổi loại thuốc để tránh làm cho sâu nhanh quen thuốc. Nếu ruộng dưa đã bị sâu gây hại nặng thì sau khi có phun thuốc nên bón bổ xung thêm phân để bồi dưỡng sức cho cây. Để hạn chế độc hại cho người sử dụng, nông dân chỉ thu hoạch khi đã đủ thời gian cách ly của thuốc.

Bọ trĩ, bọ rùa vàng:Sử dụng các loại thuốc như: Confidor 100SL, Actara, Regent.

Ápdụng biện pháp phòng là chính.

Dưa leo thường bị nhiễm một số bệnh như: Bệnh héo xanh vi khuẩn, lở cổ rễ, sương mai, phấn trắng, đốm lá (vàng lá)… Để phòng trừ các loại bệnh hại cho cây dưa leo cần chú ý:

Thường xuyên kiểm tra đồng ruộng để phát hiện bệnh kịp thời

Tiến hành chăm sóc cây đầy đủ để cây sinh trưởng, phát triển tốt đủ sức kháng bệnh.

Thực hiện chế độ luân canh cây trồng hợp lý, không trồng cây dưa leo trên đất trồng cây bầu bí hoặc cây họ cà nhiều vụ liên tiếp.

Thực hiện vệ sinh đồng ruộng, làm sạch cỏ dại và tàn dư cây vụ trước.

Dùng thuốc phun phòng: Dùng hỗn hợp 20 ml Kasumin + 15 gr Arygreen pha với 10 – 12 lít n­ước phun trên một sào.

Cách phun: Phun lần 1 sau trồng 3 – 5 ngày. Lần 2: Sau lần thứ nhất 7 ngày. Xử lý đất bằng thuốc Somix – T2 có tác dụng: Bổ xung các chất thiết yếu cho cây trồng, đưa vào đất hệ vi sinh vật có lợi, phân hủy các chất dễ tiêu, phòng chống một số bệnh hại có nguồn gốc từ đất.

Bệnh héo xanh Sử dụng các loại thuốc như: Kasumin, AryGreen, Kasuran 50 WP, Kasumin 2SL,

Bệnh lở cổ rễ: Phun bằng thuốc trừ nấm như: Validacine, Ridomil gold 68WP.

Bệnh sương mai: Dùng Boocđô 1% hoặc Zineb 80% pha loãng với nước theo nồng độ 0,4% (400g thuốc cho 100 lít nước lã) phun phòng và trừ bệnh. Ngoài ra, có thể dùng Ridomil gold 68WP.

phun 1 lần, lượng 1,5 kg/ha hoặc Allette 80WP phun 2 lần, lượng 2,0 kg/ha/1 lần phun.

Bệnh héo vàng: Sử dụng các loại thuốc như: Kasumin, AryGreen, Ridomil gold 68WP.

7. Thu hoạch, sơ chế, bảo quản

Quả 7 – 10 ngày tuổi, có thể thu hoạch, nếu để quả già sẽ ảnh hưởng tới sự ra hoa, đậu quả của các lứa tiếp theo, năng suất, chất lượng sẽ giảm. Quả nên thu vào buổi sáng. Thời kỳ rộ quả nên thu hoạch quả thường xuyên không để quá lứa hoặc quả già có thể thu mỗi ngày một đợt.

Quả sau khi thu hoạch cần được rửa sạch, để ráo nước, đóng gói và đưa đến nơi tiêu thụ.

Quy Trình Kỹ Thuật Trồng Đậu Xanh

– Giống V 87-13: Giống này có chiều cao trung bình từ 50 -60cm, phân cành tốt, khả năng tái tạo bộ lá mạnh, vì vậy, sau khi thu hoạch nếu cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng, cây đậu xanh sẽ cho thêm một đợt bông thứ hai với năng suất vào khoảng 50-60% đợt đầu. Giống V87-13 có hạt đóng kín khá đều, tương đối lớn, màu xanh thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng và xuất khẩu. Năng suất trung bình vào khoảng 1,2 tấn/hécta. Đậu xanh tốt có thể đạt 2 tấn/hécta. Khả năng chống chịu đối với bệnh khảm vàng do virus và bệnh đốm lá ở mức trung bình.

– Giống HL89 E3: Đây là giống có tính thích nghi rộng thích hợp trên nhiều chân đất, hạt đóng khít, dạng hình oval, màu xanh mỡ rất đẹp. Trọng lượng 1.000 hạt khoảng 50 – 53g. Đặc điểm của 2 giống V87-13 và HL89 E3 là hạt không bị chuyển màu nếu gặp mưa trong quá trình thu hái.

– Giống 91-15: Giống này cây cao trung bình khoảng 60 – 65cm, phơi bông nên rất thuận tiện cho công tác phòng trừ sâu hại, hạt có dạng hình trụ, màu xanh mỡ được người tiêu dùng ưa thích. Tỷ lệ hái đợt đầu vào khoảng 70 – 80%. Giống này chống chịu bệnh khảm vàng và đốm lá ở mức trung bình.

Nông dân trồng đậu ở ấp 8, xã Xuân Bắc (huyện Xuân Lộc) dùng cây tưới phun tiết kiệm nước, tránh cây bị bật gốc.

– Giống V94-208: là giống có năng suất cao, trung bình từ 1,4-1,5 tấn/hécta, có những nơi đạt 2,8 tấn/hécta. Đặc điểm nổi bật của giống V94-208 cao 75cm, thân to, lá rộng, quả nằm trên mặt lá, hạt to, hình trụ màu xanh đậm, bóng. Tuy nhiên, loại giống này có nhược điểm hạt đóng không khít trong trái, vì vậy khi gặp điều kiện dinh dưỡng không tốt các hạt sẽ không đều. Đồng thời, hạt đậu V94-208 rất dễ đổi màu khi thu hái gặp trời mưa hoặc phơi không kịp và dễ bị mọt. Khả năng chống chịu bệnh khảm vàng của giống ở mức trung bình – yếu cho nên chỉ gieo trồng trong vụ đông-xuân.

2/ Làm đất trồng

– Đất trồng đậu xanh yêu cầu phải làm tơi xốp nên cày bừa kỹ và làm sạch cỏ. Cây đậu xanh không chịu ngập úng, tùy địa thế mà chọn biện pháp làm đất như là đánh luống hoặc tỉa lan. Nhưng nên gieo đậu xanh theo hàng để thuận tiện cho việc chăm sóc. Ở các chân đất không bằng phẳng nên chú ý làm rãnh thoát nước.

3/ Gieo hạt

– Hạt đậu xanh nảy mầm khỏe nếu đảm bảo được 2 yếu tố nhiệt và ẩm. Để đảm bảo đầy đủ nhiệt cho hạt nảy mầm, nhiều nông dân có tập quán gieo đón mưa. Nếu gặp năm mưa thuận thì năng suất rất cao, nhưng đa số các cơn mưa đầu vụ thất thường, nhiều vụ gieo đi gieo lại 2-3 lần rất tốn kém. Để giảm sự bấp bênh ở khâu gieo hạt, bà con cần chú ý phần dự báo thời tiết trên các phương tiện truyền thông. Đậu xanh có thể gieo sạ theo hàng, gieo hốc. Tùy theo phương thức gieo mà lượng giống thay đổi, thông thường là lượng giống sử dụng ít nhất từ 15-16 kg/hécta.

4/ Phân bón và chăm sóc

– Lượng phân bón thích hợp cho 1 hécta đậu xanh trên vùng đất đỏ Đông Nam bộ là 90kg urê, 300kg super lân và 90kg kali và chia làm 3 lần để bón.

– Lần thứ nhất: Bón toàn bộ lân, 1/3 đạm, 1/3 kali.

– Lần thứ hai: Bón thúc đợt 1 khi cây được 3 lá thật. Lượng phân bón là 1/3 urê và 1/3 kali. Do đậu xanh có số lá ít, vì vậy nên kết hợp bón thúc đợt 1 với làm cỏ lần đầu

– Lần thứ 3 sau khi gieo 25 ngày, ta tiến hành bón thúc toàn bộ lượng phân còn lại và kết hợp với làm cỏ, vun gốc.

– Đậu xanh là cây trồng chịu hạn tốt, trồng vào mùa khô chỉ tưới 2-3 lần/tuần. Sử dụng cây tưới phun để tưới cho đậu xanh vừa tiết kiệm nước và tránh bật gốc làm ảnh hưởng đến phát triển sinh trưởng của cây.

5/ Thu hoạch

– Đậu xanh trồng được khoảng 45 – 50 ngày bắt đầu cho thu hoạch. Khi thu hoạch chỉ hái những quả chín chuyển màu nâu, nên thu trái vào buổi chiều, tránh thu vào buổi trưa những quả chín khô sẽ bị bung ra làm tỷ lệ hao hụt cao.

– Quả đậu xanh sau khi thu hoạch về đem phơi nắng khoảng 3-4 ngày đập tách lấy hạt làm sạch bụi, phơi tiếp 1-2 ngày và cho vào bao để bảo quản.

Cập nhật thông tin chi tiết về Quy Trình Kỹ Thuật Trồng Rừng Luồng trên website Duhocaustralia.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!