Xu Hướng 3/2023 # Lan Mokara – Dân Chơi Lan # Top 11 View | Duhocaustralia.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Lan Mokara – Dân Chơi Lan # Top 11 View

Bạn đang xem bài viết Lan Mokara – Dân Chơi Lan được cập nhật mới nhất trên website Duhocaustralia.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Lan Mokara

Nguồn : vuonhoalan.net

Mokara là nhóm giống hoa lan được lai tạo từ các giống: Arachnis+Vanda+Ascocentrum.

Lan Mokara là giống lan có nhiều trong họ Lan (Orchidaceae), Mokara phân bố trên các vùng thuộc Châu Á nhiệt đới, tập trung nhiều nhất ở Đông Nam Á. Nếu như các nước Nam Mỹ tự hào về các loài thuộc giống Cattleya tuyệt đẹp của mình, thì các nước Đông Nam Á cũng hãnh diện vì có giống Mokara vô cùng phong phú, điều kiện sinh thái cũng rất đa dạng.

Mokara là nhóm giống hoa lan được lai tạo từ các giống: Arachnis+Vanda+Ascocentrum. Nhóm giống này có đặc điểm tương tự như nhóm Vanda là loài lan đơn thân, thân hình trụ dài tiếp tục mọc cao lên mãi, không có giả hành, lá dài hình lòng máng hay hình trụ mọc cách hai bên thân.

Phát hoa mọc từ nách lá giữa thân, phát hoa dài mang nhiều hoa thường không phân nhánh. Hoa cỡ trung bình đến lớn, cánh đài của hoa rất lớn. Hoa có nhiều màu sắc phong phú từ trắng, tím, hồng đỏ, cam đến vàng nâu, xanh. Trên cánh hoa thường có chấm, có đốm hoặc hình carô nhìn rất đẹp.

Nhiệt độ thích hợp cho lan Mokara phát triển là từ 25-30 độ C. Nhiệt độ là một trong những yếu tố quyết định sự ra hoa của Mokara. Nếu nằm ngoài ngưỡng nhiệt thích hợp cây sẽ ra hoa kém chất lượng hoặc có khi không ra hoa được.

Rễ của Mokara là rễ trần (rễ phơi ra ngoài không khí) nên đòi hỏi ẩm độ của vườn rất cao. Cây lan Mokara không chịu úng nên phải trồng thật thoáng. Vì có đặc điểm là cây đơn thân, không có giả hành nên khả năng mất nước rất lớn, từ đó làm cây sinh trưởng kém. Do đó, phải thường xuyên tưới nước mỗi ngày 2 lần cho cây (vào sáng sớm và chiều mát).

Các chậu lan Mokara treo màu sắc tươi sáng, hoa đẹp với hương thơm thoang thoảng góp phần làm thanh mát không khí, tạo cảm giác thoải mái cho người thưởng lan. Chậu treo này có thể trang trí giàn treo vườn nhà, trang trí sân thượng, treo tại cầu thang với tiểu cảnh giếng trời, trang trí không gian các quán cafe, nhà hàng… Hoặc dùng làm quà tặng khai trương, tặng khách hàng, sưu tầm…

(BlogCayCanh.vn)

Nhân Giống Lan Cắt Cành Mokara

Nhóm hoa lan Mokara là nhóm giống chủ lực trong việc phát triển diện tích và cung cấp sản phẩm hoa lan cắt cành tại TP. Hồ Chí Minh. Hiệu quả của việc trồng hoa lan cắt cành rất cao, nhu cầu tiêu thụ của thị trường nội địa và xuất khẩu cũng rất lớn.

Mokara là nhóm giống hoa được lai tạo từ các giống: Arachnis x Vanda x Ascocentrum. Nhóm giống này có đặc điểm tương tự như nhóm Vanda là loài Lan đơn thân, thân hình trụ dài tiếp tục mọc cao lên mãi, không có giả hành, lá dài hình lòng máng hay hình trụ mọc cách hai bên thân. Phát hoa mọc từ nách lá giữa thân, phát hoa dài mang nhiều hoa thường không phân nhánh. Hoa cỡ trung bình đến lớn, cánh đài của hoa rất lớn. Hoa có nhiều màu sắc phong phú từ trắng, tím, hồng đỏ, cam, vàng nâu, xanh. trên cánh hoa thường có chấm, có đốm hoặc hình carô rất đẹp. Nhóm giống này rất thích hợp với việc trồng sản xuất hoa cắt cành do siêng ra hoa, có thể đạt 6 – 8 phát hoa/năm.

Tuy nhiên, hiện nay giá cây giống còn cao, như cây giống hoa lan Mokara từ 40.000 – 45.000 đ/cây với kích cỡ trung bình 35 – 40 cm. Nếu đầu tư một diện tích vườn lan tối thiểu khỏang 1.000 m2 nhà lưới thì số lượng cây giống phải đầu tư trung bình là 4.000 cây, giá trị cây giống lên tới 160 – 200 triệu đồng. Chưa kể giá thành nhà lưới và vật tư cần thiết khác từ 60 – 80 triệu đồng/1.000 m2 nhà lưới. Chi phí ban đầu cho cây giống hoa lan Mokara chiếm tới 70% tổng chi phí. Do đó việc giảm giá thành cây giống để cung cấp cho người sản xuất, mở rộng diện tích đang rất bức xúc.

1- Nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô ( in vitro )

Đây là phương pháp nhân giống chung được áp dụng cho hoa lan rất hiệu quả. Từ một cây mẹ ban đầu có thể nhân ra hàng ngàn cây có kích thước và chất lượng đồng đều như nhau, giúp việc nhân giống được nhanh hơn. Nếu chọn lựa cây mẹ ban đầu tốt, như có đặc tính ra hoa liên tục. Nhược điểm duy nhất của phương pháp nhân giống bằng cấy mô là từ cây cấy mô đến khi ra hoa thời gian kéo dài tối thiểu là 3 – 4 năm cây mới ra hoa nếu chăm sóc tốt. Trong khi đó cây trồng bằng hom cắt từ đọt cây mẹ chỉ cần 3 – 6 tháng đã ra hoa. Như vậy thời gian chăm sóc kéo dài, mặc dù giá thành cây giống ban đầu thấp.

2- Nhân giống từ hom:

Đây là phương pháp nhân giống đơn giản bằng cách cây con được cắt thẳng từ đọan trên cùng ( đọt ) của cây mẹ. Thông thường tùy theo yêu cầu quy cách hom giống tối thiểu phải bao gồm từ 2- 3 rễ đâm ra từ thân cây mẹ. Kích cỡ thường để trồng là tối thiểu 25 – 30 cm, có thể tới 50 – 60 cm. Hom càng dài thì khả năng cây càng khỏe do có nhiều rễ, sau khi cắt trồng sang vườn mới thì khả năng phục hồi nhanh, mau ra hoa trở lại. Tùy theo đặc tính giống, sau 3 tháng cây con cắt từ đọt đã có thể cho hoa nhưng thông thường để dưỡng cây người ta cắt bỏ các phát hoa ở giai đọan này.

Nhược điểm của phương pháp này là giống đợt đầu nhân ra với số lượng hạn chế, cứ một cây mẹ thì cắt được một đọt – tức 1 cây con. Tuy nhiên sau khi cắt đọt, cây mẹ nếu chăm sóc tốt từ các nách lá, tập trung phần trên gần chỗ cắt sẽ ra tiếp tục các mầm cây con. Thông thường từ cây mẹ sẽ ra được 2 – 3 chồi, tối đa có thể 4 chồi, sau khoảng 6 tháng cây con sẽ phát triển hoàn chỉnh và có thể tách ra để trồng. Giá thành cây giống cũng cao giống như cây mẹ.

3- Nhân giống từ hom có cải tiến:

Biện pháp cắt hom lấy phần ngọn làm cây giống, còn phần gốc sẽ phát triển các chồi con thành cây thành phẩm để trồng đang được nhà vườn trồng lan cắt cành Mokara áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên, một điểm hạn chế của phương pháp này là hệ số nhân chồi không cao. Từ một cây mẹ ban đầu, sau khi cắt hom, lấy phần ngọn ta được 01 cây thành phẩm thì số lượng chồi con sinh ra không nhiều, từ 2 – 3 chồi, tối đa có thể 4 chồi. Để cải thiện hệ số này, chúng tôi đã tiến hành thí nghiệm bằng áp dụng các biện pháp kỹ thuật để tác động vào để nâng cao khả năng ra chồi của các giống Mokara. Các lọai phân bón lá có hàm lượng đạm cao như 31-11-11 kết hợp lọai có chứa axit amin, rong biển được phun liên tục vào thời điểm trước khi cắt đọt 1 tháng và sau khi cắt 6 tháng.

Hình : Cây lan Mokara được xử lý ra chồi sau khi cắt đọt 3 tháng

Kết quả thu được cho thấy: đối với cả 2 giống thí nghiệm, tất cả các công thức có xử lý phân bón lá 31-11-11 kết hợp với rong biển, phân Terra Sorb ( có chứa acid amin ) đã cho số lượng chồi thu được cao hơn hẳn so với đối chứng từ 64 – 114%. Cũng như cao hơn so với công thức chỉ xử lý phun phân bón lá lọai 31-11-11. Số lượng chồi đạt tiêu chuẩn sau 6 tháng cắt đọt trong công thức này cũng cao hơn so với công thức đối chứng và công thức phun 31-11-11. Trong công thức có xử lý rong biển là lọai phân bón lá có chứa chất kích thích sinh trưởng Cytokinin. Đây là loại chất điều hòa sinh trưởng có tác dụng kích thích sự phân hóa cơ quan của thực vật, đặc biệt là phân hóa chồi. Nếu tỷ lệ Auxin cao hơn Cytokinin thì kích thích ra rễ, còn tỷ lệ Cytokinin cao hơn Auxin thì kích thích sự phát triển của chồi nách, giải phóng cây khỏi sự kìm hãm của chồi ngọn. Ngoài ra, lọai phân bón có chứa acid amin cũng góp phần cho sự phát triển về chiều cao của các chồi nách sau khi đọt cây mẹ bị cắt.

TS. Dương Hoa Xô

Paphiopedilum – Lan Hài – Dân Chơi Lan

Đa số lan hài thường sống ở vùng lạnh ẩm của núi cao nên chúng không phát triển tốt khi mang xuống đồng bằng do đó gây cho chúng ta ấn tượng là lan hài khó trồng. Thật ra thì lan hài có 2 nhóm:

– Nhóm lá có vân, thường chịu được nhiệt độ ấm, sống tốt ở đồng bằng: Nhiệt độ thích hợp của chúng là 15, 5°c – 18°c về đêm, nhiệt độ ban ngày 22°- 26, 5°c.

– Nhóm lá không có vân, thích hợp vùng núi cao, lạnh. Nhiệt độ ban đêm 10°c – 13°c, nhiệt độ ban ngày 15, 5°c – 18°c.

Vì vậy ở đồng bằng chúng ta có thể trồng lan hài được và như ta đã biết, quanh Sài Gòn – Gia Định xưa, lan hài mọc khắp mà sách vở còn ghi, như loài Paphiopedilum concolor gọi là Hài Gia Định. Hơn nữa các lan hài lai chịu được khí hậu nóng ở đồng bằng đã được nuôi trồng khá phổ biến ở nhiều nơi.

Như vậy ngoại trừ ở cao nguyên như Đà Lạt, Buôn Ma Thuột… là những nơi lý tưởng để trồng lan hài còn ở đồng bằng thì nên chọn những loài chịu khí hậu nóng, thường là những loài có vân ở lá.

ÁNH SÁNG.

Đối với những vùng mà môi trường tự nhiên đã thích hợp với nó như Đà Lạt (Lâm Đồng) thì chỉ cần một mái che đơn giản để tránh ánh nắng chói chang của mặt trời là đủ. Còn đối với đồng bằng, lan hài phải được trồng dưới mái che râm mát vì trong thiên nhiên chúng mọc dưới bóng cây rừng rậm rạp nên không chịu được ánh nắng trực tiếp của mặt trời. Độ sáng thích hợp là 30 – 40%, nên trồng dưới mái hiên có ánh sáng khuếch tán là tốt nhất. Thiếu nắng lá sẽ đậm màu, dư nắng sẽ tái nhạt, nhưng quá dư nắng lá sẽ bị cháy và cây sẽ khô héo nhanh chóng. Ánh sáng ban mai trong mọi trường hợp đều tốt cho cây.

NƯỚC TƯỚI.

Vì lan hài mọc nơi ẩm ướt, không có giả hành phù mập để dự trữ nước cho nên việc tưới nước cho lan hài là quan trọng nhất. Phải giữ ẩm cho lan hài suốt năm, không có thời kỳ để khô. Thường tưới 1-2 lần/ngày bằng vòi phun sương, tốt nhất nên có một thời gian khô nhẹ giữa 2 lần tưới. pH của nước cỡ 6,2 – 6,6. Tránh đừng để nước đọng ở đọt cây, chồi hoa, nhất là vào mùa nắng, sẽ làm thối đọt và hư hoa. Tưới nước đẫm trước và sau khi tưới phân là điều cần thiết, về mùa khô phải tưới thường xuyên hàng ngày. Vào mùa mưa thì phải coi chừng việc úng nước làm cho lan hài thối, những ngày không mưa thì phải tưới. Việc tránh úng trong mùa mưa là việc quan trọng nhất. Tốt nhất vào mùa mưa các chậu lan hài phải được để trên sạp hay treo lên giàn lan. Chế độ tưới nước không những tùy thuộc vào mùa mà còn tùy thuộc chậu và chất trồng.

CHẤT TRỒNG.

Vì đa số lan hài là bán địa lan hay thạch lan nên chậu và chất trồng phải giữ ẩm tốt, nhưng không được úng nước vì vậy chậu trồng nên có nhiều lỗ. Theo kinh nghiệm bản thân, nên dùng chậu của phong lan cỡ 15 – 20cm đường kính, có nhiều lỗ và trồng treo. Vì là bán địa lan nên chất trồng không nên có đất. Hỗn hợp chất trồng tốt là xơ dừa vụn hoặc dớn sợi, than gỗ vụn cỡ bằng hạt bắp đến bằng lóng tay, lá khô vụn, phân bò khô và đối với các loài sống trên đá vôi thì cần thêm vài viên đá vôi khoảng bằng đầu ngón tay, nếu không có vôi thì có thể thế bằng vỏ trứng, vỏ sò đập vụn. Có thể thay lá vụn bằng vỏ thông vụn hoặc hỗn hợp lá vụn mục nát nằm ở kẽ đá, nằm trên lớp đất mặt ở trong vườn. Trộn hỗn hợp trên và cho vào khoảng phân nửa chậu mà đáy đã có bỏ một lớp than vụn cỡ bằng ngón tay, để dễ thoát nước. Cho cây vào giữa chậu rồi cho thêm chất trồng vào cho phủ rễ nhưng không được phủ kín gốc.

BÓN PHÂN.

Với chất trồng như trên thì có thế không cần bón thêm phân cho lan hài nhưng nếu cần thì tốt nhất là nước tiểu pha loãng 1/10 hay nước phân hữu cơ pha thật loãng. Phân N. P. K. dùng cho phong lan cũng có thể dùng cho lan hài nhưng 1 – 2 tuần 1 lần thôi và trong phân cần có khoảng 40ppm Ca++ và 20 – 30ppm Mg++. Cũng cần theo dõi để bổ sung đá vôi, vỏ sò ốc,… vào chất trồng của các cây lan hài háo vôi (chúng sống trong thiên nhiên ở đá vôi). Vào mùa nắng tưới nước và phân thường xuyên hơn. Vào mùa mưa, khi trời mát mẻ, mây u ám sự quang hợp giảm không cho phép cây hấp thụ nhiều phân bón nên việc tưới phân phải giảm bớt đi. Tưới nước đậm sau mỗi lần tưới phân để loại bỏ phần muối dư thừa. Nếu thấy đầu lá bị nâu khô đi thì ngừng hẳn việc tưới phân.

GIÓ VÀ THOÁNG.

Nhu cầu giữ ẩm cao cho cây lan hài cộng thêm khí hậu nóng ở miền nhiệt đới lại là yếu tố làm cho nấm bệnh nảy sinh cho nên nhất thiết nơi trồng lan hài phải thoáng gió.

BỆNH.

Kẻ thù quan trọng nhất của lan hài là nhện đỏ và rệp bột nên xử lý bằng thuốc chống côn trùng loại Dimethoate mỗi tháng 1 – 2 lần và cũng nên dùng thuốc trừ nấm như Orthocide, Benomyl tháng/1 lần để ngừa việc thối gốc, thối rễ.

SANG CHẬU.

Cây trưởng thành cần được thay chậu khi chúng mọc ra ngoài chậu, khi chất trồng bắt đầu mục nát và khi sự thoát nước trở nên kém đi. Thời điểm sang chậu là ngay sau mùa hoa. Việc thay chậu ở cây con thì cần nhẹ nhàng để chuyển nó sang chậu lớn hơn.

Đối với cây lớn thì bỏ hết chất trồng cũ, rễ cũ hư thôi, nếu cần thì rửa rễ với thuốc trừ nấm. Trồng vào chậu mới với chất trồng mới như thành phần đã nêu trên. Sau khi sang chậu tưới nước đậm cho chất trồng ổn định rồi chờ từ 3 – 5 ngày sau mới tưới trở lại, nếu cần chỉ tưới sương trên lá nhất là vào mùa hè để giữ ẩm, đến khi chồi mới phát triển (khoảng 3 tuần) thì hãy tưới đều trở lại như bình thường.

NHÂN GIỐNG.

Khi sang chậu nên kết hợp với việc nhân giống bằng cách tách chiết, nhất là đối với những chậu có nhiều cây mọc chật cứng hoặc bò ra cả mép chậu, cần tách cây ra từng bụi 2 – 3 cây một đơn vị. Có thể dùng tay để tách, không nhất thiết phải dùng dao kéo xắn đứt căn hành giữa chúng, cắt bỏ lá cằn cỗi và rễ hư, già và loại hẳn, không chừa một chút chất trồng cũ nào, rồi trồng vào chậu mới với chất trồng mới.

LAI TẠO.

Con đường nhân giống bằng cấy mô vẫn chưa thành công ở lan hài cho nên tất cả lan hài trao đổi trên thị trường đều hoặc là tách chiết (giới hạn) hoặc là gieo hột (phổ biến nhất).

Nhờ các công trình lai mà các cây lan hài ngày càng trở nên phổ thông nhanh chóng. Không có nhà sưu tập nào lại không có cây lan hài trong vườn lan của họ, và vào năm 1909 người ta đã cho hay việc lai tạo ở nhóm lan hài đã vượt xa con số lai ở các nhóm khác và chắc chắn một kỹ nghệ hoa mới ra đời.

Nhưng không phải loài hài nào cũng lai được. Khả năng thụ kém hay bất thụ đã tìm gặp trong nhóm lan hài. Điều đó do bất đồng số lượng nhiễm sắc thể của cha mẹ. Nhiều loài có 26 nhiễm sắc thể nhưng cũng có một số khác có 28 – 42 nhiễm sắc thể. Và như vậy, trong trường hợp này sử dụng đa bội thể (xem Tìm Hiểu Hoa Lan 1992) đã tạo ra được những cây lan lai nổi tiếng.

Việc trồng lan hài không phải là chuyện mới mẻ. Trước đây, người chơi lan ở Đà Lạt đã trồng nhiều và cũng đã nhập những cây lan hài từ Châu Âu. Nhưng việc biến nó thành một loài lan phổ biến ở đất nước chúng ta vẫn còn là ước mơ của mọi người dù rằng chúng ta có những loài hài đặc hữu quí giá. Cũng cần biết rằng vì không cấy mô được nên giá cả ở cây lan hài tương đối ổn định và trị giá của những cây lan hài đặc sắc độc đáo là rất cao. Thế cho nên nếu bảo vệ được nguồn gen đặc hữu trên thì khả năng tạo được những cây lan hài độc đáo, đặc thù Việt Nam có giá trị kinh tế lớn sẽ nằm trong tầm tay của chúng ta.

Các loài lan thuộc giống hoa lan hài

Loài lan Paphiopedilum delenatii.

Đây là loài cho hoa đẹp nhất trong các loại Paphiopedilum, có túi màu hồng, có kích thước khoảng 7cm và thường trổ 2 – 3 bông trên 1 cuống. Lần đầu tiên nó được phát hiện ở Việt Nam vào những năm 1900. Tuy nhiên, đây là loài tương đối khó trổ bông. Nó cần khí hậu lạnh để trổ hoa, vì vậy cần hạ thấp nhiệt độ khi cây phát triển. Cây phát triển tốt dưới ánh sáng đèn phòng, bên bệ cửa sổ hay trong nhà kính.

Loài lan Paphiopedilum delenatii.

Loài lan Paphiopedilum bellatulum.

Đây là loại dễ trồng đối với người mới biết trồng lan và dễ trổ hoa dù đặt bên cửa sổ, dưới ánh sáng đèn phòng hay trong nhà kính. Nên trồng cây trong điều kiện nhiệt độ ấm áp, ánh sáng vừa, độ ẩm tốt thì cây sẽ phát triển tốt và trổ hoa vào mùa xuân. Hoa có có kích thước khoảng 5 – 8cm, màu trắng hay ngà có đốm màu hạt dẻ và rũ xuống.

Loài lan Paphiopedilum bellatulum.

Loại lan Paphiopedilum Francisco Freire.

Đây là loại dễ trồng và rất dễ trổ bông dưới ánh đèn, bên cửa sổ hay trong nhà kính. Cây phát triển tốt trong chậu nhựa lẫn chậu đất sét, điều kiện nhiệt độ ấm. Đây là loại cho hoa đẹp, và lâu tàn.

Loại lan Paphiopedilum Francisco Freire.

Loài lan Paphiopedilum Callosum.

Đây là một trong những loài dễ trồng nhất của giống hoa lan Paphiopedilum. Loài này có hoa đẹp, kích thước khoảng 8 – 11 cm, có những vân sọc từ xanh lá đến tím, có lông tơ màu tím.

Loài lan Paphiopedilum Callosum.

Loài lan Paphiopedilum Leeanum.

Hoa có đài hoa hai bên màu lục, một đài hoa lốm đốm hồng và đài hoa có lưng sọc trắng và một khoang túi màu nâu. Hoa nở vào mùa Đông và sống tới 3 tháng trên cây.

Loài lan Paphiopedilum Leeanum.

Loài lan Paphiopedilum Lady Isabel.

– Trên cọng hoa nở rất nhiều hoa màu trắng kem, lốm đốm nâu và môi màu đỏ nhạt trên nhánh cao. Hoa nở vòa mùa Đông và mùa Xuân. Lá đài màu lục có thể phát triển rất lớn.

Loài lan Paphiopedilum Lady Isabel.

Loài lan Paphiopedilum micranthum.

Loại lan này có lá lốm đốm hay vằn và hoa có màu hồng nhạt, khoang túi rất to và có những sọc vàng trên mỗi cánh hoa. Hoa nở vào mùa Xuân.

Loài lan Paphiopedilum micranthum.

Loài lan Paphiopedilum Schillerianum.

Loại lan này có hoa màu kem có sọc và lốm đốm màu tím sẫm và khoang túi phồng ra cũng có màu tím tương tự. Hoa nở vào mùa Đông.

Loài lan Paphiopedilum Schillerianum.

Loài lan Paphiopedilum Yellow Tiger.

Hoa có màu trắng kem, sọc màu nâu socola, khoang túi có màu mâm xôi. Những cánh hoa màu xanh nhạt làm cho vẻ đẹp trang nhã hơn. Hoa nở vào mùa Đông.

Loài lan Paphiopedilum Yellow Tiger.

Hoa Lan Miltonia – Dân Chơi Lan

Miltonia

Cùng giống: Anneliesia Brieger & Luckel

Tông: Maxillarieae

Tông phụ: Oncidiinae

Phân bố: Có 11 loài và khoảng 4 loài được lai tạo trong tự nhiên ở Nam Mỹ, chủ yếu là ở Brasil

Giả hành thường hình trứng đến hình thuôn,hơi bị bóp lại, được làm phình to bởi các lớp vỏ lụa của lá. Có 2 lá trên đỉnh, giả hành mọc lên từ thân rễ bò lan. Lá thẳng hoặc hình đai. Vòi hoa mọc từ nách lá, thường không phân nhánh, đứng thẳng hoặc uốn cong, có từ 1 đến nhiều hoa, hoa nổi bật. Các lá đài và cánh hoa phẳng, tương tự như nhau, cánh hoa rộng hơn. Môi không phân thùy, thường có hình cái quạt hoặc

hình cái chốt chặn. Khối phấn 2.

CÁCH TRỒNG

Trồng trong chậu, với chất trồng thông thoáng, nhiệt độ trung bình, ánh sáng và bóng râm vừa phải. Khi cây đang trong giai đoạn phát triển thì tưới nhiều nước, giảm nước tưới khi lan đi vào kỳ nghỉ.

Giả hành dài 10 cm. Lá dài 45 cm, rộng 2,5 cm, màu xanh xỉn. Vòi hoa không phân nhánh, cao 4 cm, có một số hoa, mỗi lần nở chỉ có 2 hoặc 3 hoa, hoa nở mở rộng hết cỡ, hoa to 5-8 cm, ngả màu vàng, có những sọc và đốm màunâu đỏ. Môi trắng với một bớt màu đỏ tía xuống tận phần chân. Ra hoa vào mùa thu.

Lan biểu sinh, trong các khu rừng ần bờ biển, trên độ cao 0-900 m, ở miền đông Brasil

Loài tương tự: Mmiltonia candida Lindley có các lá đài và cánh hoa ngả nâu, có những đốm và đầu cánh màu vàng. Môi trắng với 2 đốm đỏ ở họng, chân trụ hoa cuộn lại.

Miltonia cuneata

Giả hành bị dẹt, dài 10 cm. Lá dài 45 cm, rộng 2,5 cm, màu xanh tối. Cuống hoa cao 45 cm, có 7-10 hoa, hoa to 5-8 cm. Các lá đài và cánh hoa màu vàng kem, có những sọc màu nâu sô-cô-la đậm. Môi trắng, hình cái quạt, có 1 mô sần ở chân của 2 mô chụp. Ra hoa vào mùa đông-xuân.

Lan biểu sinh, trong các khu rừng cận sơn, trên độ cao 800-1.000 m, ở Brasil 

Giả hành dài 12 cm. Lá dài 35 cm, rộng 1,5 cm

Vòi hoa không phân nhánh, có 7-10 hoa, các hoa nở cùng một lúc. Các cuống hoa dẹt, hoa có hương thơm, màu vàng dâu tây, môi có những đốm đỏ. Các lá đài và cánh hoa hẹp, dài 50 mm, rộng 5 mm. Môi hình trứng tới hình thuôn, riền gợn sóng. Ra hoa vào mùa hè-thu.

Lan biểu sinh, trong các khu rừng cận sơn, trên độ cao chừng 800 m, ở Argentina, Brasil, Paraguay, Peru.

Miltonia moreliana

Cùng loài: Miltonia spectabilis Lindley var. moreliana (A. Richard) Henfrey

Giả hành ngả vàng, hai bên bị bóp lại, dài 10

Lá dài 10-15 cm, hình đai hẹp, màu xanh vàng. Vòi hoa dài 25 cm, có 1 hoa, hoa bẹt, to 10 cm. Các lá đài và cánh hoa có màu đỏ mận, môi màu hồng, với những vân màu đỏ tía nổi bật.

Lan biểu sinh, trong rừng, ở Brasil.

Miltonia regnellii

Giả hành dài 9 cm. Lá dài 30 cm, rộng 1,5 cm

Vòi hoa dài 40 cm, không phân nhánh, có 3-5 hoa, hoa to 7,5 cm, hoa màu trắng ánh lên màu hồng hoặc màu hoa tử đinh hương. Môi màu hông ngả sang màu hoa tử đinh hương, riềm môi màu trắng. Ra hoa vào mùa thu.

Lan biểu sinh, trong các khu rừng nhiều mưa vùng cận sơn, trên độ cao 300-800 m, ở miền đông Brasil.

Giả hành dài 7 cm. Lá dài 13 cm, rộng 2 cm, màu xanh vàng. Vòi hoa cao 25 cm, các cuống hoa dẹt, có 1 hoa, hoa to 10 cm, các lá đài và cánh hoa màu trắng pha hồng ờ phần chân. Môi màu hồng tím với những vân đậm màu hơn, mô sần màu vàng, có 3 chụp. Ra hoa vào mùa thu.

Lan biểu sinh, trong rừng, trên độ cao chừng 800 m, ở Brasil.

Nguồn tài liệu: SÁCH HOA LAN ( của Bác Phạm Tiến Khoa )

Phalaenopsis – Lan Hồ Điệp – Dân Chơi Lan

Để lan Hồ điệp phát triển tốt, ngoài việc phải biết cách trồng lan hồ điệp, biết cách chăm sóc cho cây lan, chúng ta phải chú ý đến điều kiện ngoại cảnh của lan Hồ điệp mới có thể giúp cây phát triển được tốt nhất.

Ánh sáng cho lan hồ điệp

Hoa lan Hồ điệp đã và đang được sản xuất với số lương lớn nhất so với các loài lan khác trên thị trường. Môi trường sống tự nhiên của chúng là ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, trong tự nhiên chúng bám trên các cành cây trong rừng, dưới bóng râm của các tán lá. Do đó cần có ánh sáng cho lan hồ điệp thích hợp để chúng phát triển.

Các khuyến cáo của chúng tôi đối với người trồng có tính chất thương mại, là ánh sáng cho lan Hồ điệp thích hợp với cường độ từ 1.000 đến 2.000 nến. Cây Hồ điệp lớn của tôi (từ đây trở đi, tất cả chủ từ đều chỉ tiến sĩ Wang) có tên là Phalaenopsis Tam Butterfly (mất bốn năm rưỡi từ khi gieo hạt), đã ra hoa mùa thứ ba, trong điều kiện cường độ ánh sáng cho lan hồ điệp bằng 600-1.000 nến, với hoa lớn đạt 10 cm (4 inch), trên một vòi hoa có phân nhiều nhánh. Nhìn chung, khi trời trở nên mát mẻ (18,3 oC) thì cần có ánh sáng cho lan hồ điệp mạnh hơn, và giảm cường độ sáng cho lan hồ điệp khi trời trở nên nóng hơn (30 oC), nhằm tránh cho lá bị quá nhiệt, dẫn đến tình trạng cháy lá. Những khí khổng trên mặt lá lan Hồ điệp sẽ mở ra trong thời gian không có ánh sáng để tiếp nhận carbon dioxide, và chúng gần như đóng lại vào ban ngày để bảo toàn nước. Điều này sẽ giúp cho lá có cơ hội giải tỏa nhiệt trên lá bằng cách trao đổi nhiệt.

Các cây lan Hồ điệp nhỏ thường mọc ở những nơi có cường độ ánh sáng thấp hơn 1.000 nến. Đối với tôi, các cây lan nhỏ tôi đặt dưới ánh sáng 800 đến 1.000 nến trong thời gian 2 tuần lễ, sau đó tôi lấy chúng ra khỏi chai (cấy mô) chuyển ra nơi có cường độ ánh sáng 1.500 nến để thúc cho cây lan hồ điệp phát triển.

Phần lớn những người có sở thích trồng Hồ điệp trong nhà hoặc dưới ánh sáng nhân tạo, trong môi trường này, mức độ ánh sáng cho lan hồ điệp mà chúng hấp thu trong 24 giờ thấp hơn đáng kể so với các điều kiện về ánh sáng cho lan hồ điệp với điều kiện lý tưởng trong nhà kính. Song dù sao những người đó vẫn có những cây Hồ điệp ra hoa. Vậy câu hỏi đặt ra là bao nhiêu ánh sáng mà cây Hồ điệp cần để cho chúng phát triển và ra hoa?

Tôi trồng mấy cây lan Hồ điệp Joseph Hampton ‘Diane’, thuộc loại sinh sản vô tính, đã được giải thưởng danh dự của Hội Hoa lan Hoa kỳ. Cây này tôi trồng trong nhà kính với ánh sáng vào lúc trưa tối đa là 1.400 nến. Khi những bông hoa đầu tiên của mỗi cây nở đầy đủ (mãn khai) là vào cuối tháng Giêng năm 1993. Để tìm ra manh mối nhu cầu về ánh sáng mà lan Hồ điệp cần, tôi đã di chuyển các cây này vào một phòng, điều chỉnh cường độ sáng ở các mức 50, 100, 150 hoặc 250 nến, bằng ánh sáng của đèn ống, có ánh sáng lạnh, trong suốt 12 giờ mỗi ngày, nhiệt độ trong phòng là 20 và 25 oC, tôi nhận thấy rằng cây Hồ điệp mà tôi đặt dưới cường độ ánh sáng 100 nến vẫn tiếp tục ra hoa dài ngày hơn (127 ngày), hơn hẳn những cây đặt dưới cường độ ánh sáng 150 hoặc 250 nến (chỉ có 118 ngày, xem bảng 1). Song dù sao, hoa của những cây đặt dưới cường độ ánh sáng 50 và 100 nến (đây là cường độ ánh sáng trong hầu hết các cơ quan) thì hơi nhỏ hơn (chỉ từ 10,6 cm đến 10,9 cm), nhỏ hơn các cây đặt dưới ánh sáng cao hơn (11,2 cm). Nụ hoa luôn phát triển đầy đủ ngay trong điều kiện ánh sáng cho lan hồ điệp chỉ ở mức 50 nến. Như vậy có thể kết luận rằng, cây lan Hồ điệp chỉ cần cung cấp 50 nến trong thời gian 12 giờ mỗi ngày cũng đủ để chúng phát hoa. Sự khác nhau có thể xuất hiện ở các loài lan lai tạo khác.

Những cây lan hồ điệp này được tôi giữ dưới cường độ ánh sáng tương ứng trên hai năm tròn, cho đến cuối tháng Hai, 1995. Trong suốt thời gian đó, những cây để dưới ánh sáng 50 hoặc 100 nến đều không ra hoa vào mùa ra hoa của chúng. Chỉ có một nửa số cây giữ ở cường độ ánh sáng 150-250 nến mới cho ra hoa. Còn những cây để ở mức 50 nến chỉ cho lá dài và rất đẹp (Bảng 1). Do cường độ ánh sáng cho lan hồ điệp đã tăng lên, nhiều lá đã hình thành với nhiều dài lớn hơn (Bảng 2). Tất cả những lá trưởng thành có chiều dài tương tự nhau (34 cm), không kể là ở cường độ ánh sáng nào.

Kết quả thí nghiệm trên cho thấy rằng, nhu cầu cường độ ánh sáng tối thiểu cho sự phát triển tính chất thực vật và sự tái tạo của lan Hồ điệp là khác nhau. Mặc dù ánh sáng cho lan hồ điệp ở mức 50 nến đủ để cho các cây lan phát triển lá, nhưng các cây lan hồ điệp khỏe mạnh cần mức độ ánh sáng cao hơn 250 nến để có thể một trăm phần trăm đều ra hoa. Điều này có thể giải thích vì sao nhiều người trồng lan Hồ điệp không ra hoa, mặc dù họ đã giữ nhiệt độ nơi trồng đúng và đủ để cây phát hoa, có nghĩa là họ đã không cung cấp đủ lượng ánh sáng cần thiết cho chúng.

Khi ánh sáng cho lan hồ điệp yếu thì phải tăng thời gian phơi sáng để có tổng lượng ánh sáng đủ theo yêu cầu của cây lan hồ điệp.

Các nghiên cứu cho thấy rằng nhiều loài lan không phát triển tốt và một số cây trở nên úa vàng do để phơi sáng liên tục. Các lá cây lan Hồ điệp phát triển đầy đủ và hấp thu carbon dioxide tốt chính là vào thời gian không có ánh sáng trong ngày. Vì thế mỗi ngày nên có thời gian để lan trong bóng tối để chúng phát triển tốt nhất.

Có một kinh nghiệm của riêng tôi như sau, cùng một lúc tôi dùng bốn phòng, tôi phơi sáng các cây ở mức sáng 800, 300 hoặc 40 nến, 12 tiếng mỗi ngày, trong suốt 68 ngày, nhiệt độ trong phòng là 20 oC vào ban ngày và 15 oC vào ban đêm. Các cây khác tôi để trong bóng tối liên tục. Kết quả là những cây được phơi sáng dưới cường độ 800 nến hoặc 300 nến thì nhú vòi hoa sau 5 tuần lễ, trong khi các cây được phơi sáng ở mức độ 40 nến, thì đến cuối tuần lễ thứ sáu vẫn chưa thấy nhú vòi hoa. Những cây nói sau, sau đó chúng được chuyển vào nhà kính thì chúng lại ra hoa bình thường. Về điểm này, tôi nghĩ rằng nó cũng giúp ích nếu được áp dụng. Đó là làm chậm việc ra hoa của cây lan và cho chúng ra hoa vào thời điểm mà mình mong muốn.

Bước tiếp theo là tôi đặt ba nhóm lan Hồ điệp cấy mô (sinh sản vô tính) vào trong ba phòng trồng lan với điều kiện đã nói ở trên, nhưng không phải là tất cả được đặt trong tối, một nhóm được đặt dưới ánh sáng 800 nến trong mỗi chu kỳ là hai tuần. Kết quả mỹ mãn, so với nhóm được phơi sáng, tôi đã làm chậm thời gian ra hoa của các nhóm trong tối đúng bằng thời gian chúng ở trong bóng tối. Sau đó cả ba nhóm này đã nở hoa cứ mỗi hai tuần lễ kể từ khi ra nụ. Còn chu kỳ phát hoa của chúng rất chính xác là 123 ngày kể từ khi chồi hoa nhú ra đến khi hoa nở, số lượng hoa cũng như kích thước của hoa của tất cả các cây lan hồ điệp đều như nhau.

Do các điều kiện về môi trường trong các nhà kính thay đổi bất thường nhiều hơn là môi trường được kiểm soát tốt trong các phòng thí nghiệm, vì vậy tôi cũng không chắc kinh nghiệm này có giúp ích được nhiều cho những người trồng lan thương mại hay không.

Vào năm 1995, tôi được sự trợ giúp của Hội Hoa lan Hoa kỳ, tôi tiến hành một thí nghiệm khác đối với các cây lan Phalaenopsis Tam Buterfly. Để tránh cho các cây lan trong nhà kính bị quá nhiệt, tôi đã dùng các tấm vải đen làm che mất 93 phần trăm ánh sáng (râm 93%) trong thời gian hai, ba, bốn hoặc năm ngày trong một tuần lễ, chỉ cho các cây lan hồ điệp tiếp xúc với ánh sáng trong thời gian tôi bỏ các tấm vải đen che phủ ra. Thí nghiệm này được tiến hành vào ngày 15 tháng Chín, trước thời gian chồi hoa hình thành và kết thúc vào 22 tháng Giêng. Kết quả như sau:

Các cây không bị che nở hoa vào ngày 8 tháng Hai, 1996.

Các cây bị che 5 ngày một tuần, ra chồi hoa vào ngày 10 tháng Hai, và nở hoa vào ngày 9 tháng Năm, 1996 (xem bảng 3).

Không có sai biệt về số lượng cũng như kích thước của hoa. Mặc dù, các cây lan hồ điệp được che 4 ngày/tuần cũng ra hoa chậm hơn có một tháng trong mùa hoa 1995-1996. Nhưng cây có tuổi non hơn một năm so với các cây thí nghiệm cũng ra hoa vào vụ hoa 1995-1996 nhưng chậm hơn ba tháng.

Người ta có thể tìm cách sắp xếp cho các cây lan hồ điệp nở hoa theo ý muốn và có thể để cây lan trong bao lâu trong các cuộc thí nghiệm. Tôi đã che phủ một số lượng lớn cây lan hồ điệp Plalaenopsis Tam Betterfly trong một cái lồng, mỗi tuần năm ngày, bắt đầu từ ngày 2 tháng Giêng. Tôi đưa một nhóm ra khỏi cuộc thí nghiệm vào mỗi tuần khác và đặt chúng dưới các điều kiện được quy nạp. Cuộc thực nghiệm này đã thành công, các cây đó ra hoa  vào thời gian sau đó (bảng 3). Những cây còn lại tôi đưa ra ngoài vào ngày 2 tháng Ba, chúng đã không ra hoa cho tới đầu tháng Sáu, và số lượng hoa cũng ít hơn (18 so với 41 đối với những cây có kiểm soát, xem bảng 4). Do nhiệt độ không khí trong nhà kính tăng lên vào cuối mùa xuân, nên các vòi hoa xuất hiện chậm hơn mà thời gian nở hoa lại ngắn.

Nhiệt độ không khí dưới tấm phủ cao hơn không khí trong nhà kính từ 2 đến 4 oC. Vì thế chúng ta cần quan tâm nhiều đến vấn đề nhiệt độ, đừng để nó tăng lên cao quá. Vì vậy các cây được che phủ để làm chậm việc ra hoa có thể sẽ an toàn hơn và tốt hơn ở nơi có nhiệt độ không khí mát mẻ hơn. Nếu không sẽ có một số cây nhú vòi hoa ngay trong thời gian bị che phủ. Khi thấy hiện tượng này thì ngay lập tức đưa những cây đó ra ngoài nơi có ánh sáng thích hợp cho lan hồ điệp. Ở những vùng có số ngày nắng không nhiều vào mùa thu và mùa đông, người ta không nên che phủ tới 5 ngày/tuần, như vậy cây sẽ không bị yếu.

Người ta cũng cần biết độ dài của thời gian một cây lan Hồ điệp cần có để phát hoa, và thời gian từ lúc xuất hiện vòi hoa đến thời gian hoa nở để có một thời gian biểu chính xác cho việc ra hoa theo ý muốn.

Nếu các bạn muốn áp dụng phương pháp làm chậm ra hoa này mà không thành công, thì hãy đưa cây lan hồ điệp vào nơi có nhiệt độ 28 oC trong mọi thời gian để có cây lan không phát vòi hoa được. Đây là một phương pháp đắt đỏ mà nhiều nhà trồng lan ở Nhật bản đã áp dụng để làm chậm việc ra hoa.

Tôi có kế hoạch nghiên cứu bổ sung để quyết định thay đổi về mặt sinh học và hóa học trong các lá cây lan Hồ điệp và các chồi ở nách lá trong thời gian xử lý cho cây lan chậm ra vòi hoa. Kết quả sơ bộ cho thấy việc tích tụ axit malic (chất chuyển hóa đầu tiên tiếp theo sự hình thành carbon dioxide) đã làm suy yếu cây lan Hồ điệp sau khi đặt chúng vào chỗ tối trong mấy ngày. Như vậy có khả năng mức độ đường và tinh bột trong lá cây lan cũng suy giảm, điều đó làm cho vòi hoa không xuất hiện ở những cây đặt trong bóng tối./.

Bảng 1. Về nhu cầu ánh sáng cho lan hồ điệp.

Tính chất của lan hồ điệp Phalaenopsis Josep Hampton ‘Diane’. Dưới các điều kiện ánh sáng trong 25 tháng.

Cường độ sáng(tính bằng nến) Thời gian hoa tàn(ngày) Kích thước hoa(cm)

50 127 10,6

100 127 10,9

150 118 11,2

250 118 11,2

Bảng 2. Về nhu cầu ánh sáng cho lan hồ điệp.

Sự phát triển của Phalaenopsis Joseph Hampton ‘Diane’ dưới các điều kiện ánh sáng trong 25 tháng.

Cường độ sáng(nến) Số lá mới Chiều dài trung bình của lá trưởng thành Tổng chiều dài của các lá mới

50 4,0 34,5 137

100 4,8 32,9 154

150 5,1 33,9 165

250 5,6 34,3 191

Bảng 3. Về nhu cầu ánh sáng cho lan hồ điệp.

Ảnh hưởng của việc phơi sáng các cây lan trong thời gian trong tối (D) và ngoài sáng (L) khác nhau trong chu kỳ tuần lễ trên việc phát vòi hoa và nở hoa của lan hồ điệp Phalaenopsis Tam Butterfly (1995-96). Cuộc thí nghiệm bắt đầu từ 15/9/1995.

Thí nghiệm(Ngày) Ngày nảy chồi hoa Ngày hoa nở Tổng số hoa

Có kiểm soát Ngày 7/10 Ngày 8/2 41

2D/5L Ngày 14/10 Ngày 20/2 39

3D/4L Ngày 18/10 Ngày 21/2 43

4D/3L Ngày 8/11 Ngày 6/3 38

5D/2L Ngày 10/2 Ngày 9/5 32

Bảng 4. Về nhu cầu ánh sáng cho lan hồ điệp.

Ảnh hưởng của việc di chuyển định kỳ từ một thí nghiệm làm chậm phát chồi hoa trên lan hồ điệp Phalaenopsis Tam Butterfly. Cuộc thí nghiệm được bắt đầu ngà 15 tháng 9, 1995 và các cây vẫn được để trong bóng tôi mỗi tuần 5 ngày và phơi sáng mỗi tuần 2 ngày.

Cây lan được xử lý đến ngày (năm 1996) Ngày xuất hiện chồi hoa1995-1996 Ngày hoa nở(1996) Tổng số hoa

Có kiểm soát Ngày 7/10/1995 Ngày 8/2 41

Ngày 2/1 Ngày 6/2/1996 Ngày 8/5 27

Ngày 17/1 Ngày 12/2/1996 Ngày 5/5 22

Ngày ½ Ngày 24/2/1996 Ngày 16/5 23

Ngày 16/2 Ngày 14/3/1996 Ngày 23/5 25

Ngày 2/3 Ngày 28/3/1996 Ngày 3/6 18

Nhu cầu ánh sáng cho lan hồ điệp Phalaenopsis amabilis.

Giá thể của hoa lan Hồ Điệp phải khá tơi xốp và thoáng khí, đồng thời phải cỏ khả năng giữ nước như gỗ mùn, than bùn khô, hạt đá nhỏ, rêu… Dưới rễ của cây non lót một lớp rêu hoặc trồng cây lan non trực tiếp vào rêu. Với những giá thể trồng khác nhau cũng phải có cách trồng và chăm sóc khác nhau đặc biệt là chế độ nước tưới, với những giá thể kém giữ nước thì phải tưới thường xuyên hơn.

Dùng rêu để làm giá thể trồng lan, cần phải xử lý tiệt trùng trước và phải rửa nhiều lần (3-4 lần). Giai đoạn cây non của lan Hồ Điệp kéo dài, do vậy nếu dùng rêu để làm giá thể ươm cây lan con thì phải lựa chọn loại rêu chất lượng tốt. Loại rêu nếu không qua khử trùng ở nhiệt độ cao thì rêu vẫn có mầu xanh, dễ bị thối mốc dẫn đến thối rễ hoa lan, cây lan con sinh trưởng kém, các loại sâu bệnh có cơ hội để phát triển, làm chết cây non.

Chậu trồng lan Hồ điệp là chậu không sâu, chậu nhỏ màu trắng và trong suốt, để có lợi cho hệ rễ của lan phát triển và quang hợp. Căn cứ vào kích thước cây lớn, nhỏ mà chọn chậu trồng lan thích hợp. Cây lan non trồng trong chậu đường kính 8-10 cm; 3-6 tháng sau lớn thành cây lan trưởng thành trồng sang chậu đường kính 12-15 cm, tiếp tục trồng 4-6 tháng có thể tiến hành xử lý thúc ra hoa.

Hoa lan Hồ Điệp có nguồn gốc từ miền nhiệt đới, do đó nhiệt độ thích hợp để trồng lan Hồ Điệp tương đối cao. Nhiệt độ thích hợp nhất để trồng lan hồ điệp ban ngày là 25-28°C, ban đêm là 18-20°c, giai đoạn ươm cây con thì cần nhiệt độ ban đêm là 23°c. Nếu nhiệt độ nhà trồng lan thấp hơn 15°c, rễ cây ngừng hút chất dinh dưỡng, quá trình sinh trưởng ngừng lại, thậm chí là bị lạnh hại làm cho rụng nụ và hoa hoặc khiến cho cánh hoa xuất hiện các đốm nhỏ ảnh hưởng đến vẻ đẹp của hoa. Giai đoạn phân hóa hoa đòi hỏi phải có sự cách biệt khá cao về độ chênh lệch nhiệt độ ngày/đêm, nhiệt độ ban ngày thích hợp nhất là 25°c, ban đêm 18-20°c, kéo dài 3-6 tuần rất có lợi cho sự phân hóa hoa lan.

Thử nghiệm nghiên cứu thực vật cho thấy sự cải thiện của hoa Hồ điệp dưới quang phổ rộng

Các mùa khác nhau, lượng nước tưới cũng khác nhau. Các giá thể trồng khác nhau thì lượng nước tưới cùng khác nhau. Do lá của lan Hồ Điệp khá dày lượng nước chứa trong lá khá nhiều nên lan Hồ Điệp chịu hạn tốt. Mùa xuân độ ẩm không khí cao nên cách 3 – 7 ngày tưới nước cho lan hồ điệp một lần: mùa hè, thu, nhiệt độ không khí cao, lượng nước bốc hơi mạnh, thông thường cách 1 – 2 ngày tưới đẫm nước một lần; còn mùa đông nhiệt đô thấp, ẩm độ không khí cũng thấp, để đảm bảo những điều kiện nhất định về ẩm độ đồng thời tránh cho lá tích nước, nếu lá tích nuớc sẽ làm cho lá bị lạnh hại. Vì thế thông thường vào lúc sau 10 giờ sáng và trước 15 giờ chiều thì tưới nước. Nếu điều kiện cho phép sau khi tưới nước nên để cho cây được thoáng khí thông gió để cho nước đọng trên mặt lá bị bay hơi hết sẽ giảm sự phát sinh của bệnh hại.

Nguyên tắc tưới nước: Giá thể giữ ở mức lúc khô lúc ướt, nếu thấy giá thể khô thì tưới nước và tưới ướt đẫm. Lan Hồ điệp là loài lan có rễ buông trong không khí nên độ thông thoáng của hệ rễ sẽ có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình sinh trưởng và phát triển của cây. Khi dùng rêu làm giá thể trồng, nếu nước đọng trong rêu lâu ngày thì nước sẽ lấp đầy các khe trống, không khí ở các lỗ trống trong giá thể bị nước đẩy đi hết mà không khí bên ngoài cũng không vào được dẫn đến cây bị thiếu ôxy làm cho rễ không hô hấp được bình thường, các quá trình sinh lý giảm, rễ cây không thể hút nước và chất dinh dưỡng. Đồng thời do giá thể không đủ ôxy nên những vi sinh vật háo khí có chức năng phân hủy chất hữu cơ không thể hoạt động được bình thường, ảnh hưởng đến việc cung cấp các chất dinh dưỡng, làm cho các vi sinh vật yếm khí sinh sôi nảy nở, tăng độ chua của giá thể, tạo ra một số axit như HSO4; NH4… khiến cho rễ bị đầu độc. Trong quá trình trồng lan Hồ điệp hay gặp phải hiện tượng giá thể bị chua có mùi hôi thối, chính là vì giá thể bị quá ướt lâu ngày tạo thành.

Thời kỳ sinh trưởng sinh dưỡng của lan Hồ điệp, cần bón N,P,K với tỷ lệ cao (30-10-10) hoặc tỷ lệ cao (20-10-20). Còn thời kỳ sinh trưởng sinh sản, cần bón ít phân N tăng phân P, K (tỷ lệ 10-30-20). Trước khi xử lý thúc ra hoa, phun thêm KH2PO4 có lợi cho việc hình thành và phát triển của chồi hoa, làm cho cành hoa to mập, nên bón phân cho lan dưới dạng dung dịch là chủ yếu, nồng độ là 0,05 – 0,1% để phun, cách 7-10 ngày phun 1 lần.

Một số giống lan Hồ điệp

Hoa lan hồ điệp Phalaenopsis sumatrana

Hoa lan hồ điệp Phalaenopsis violacea

Hoa lan hồ điệp Phalaenopsis hieroglyphica

Hoa lan hồ điệp Phalaenopsis schilleriana

Hoa lan hồ điệp Phalaenopsis bastianii

Hoa lan hồ điệp Phalaenopsis gibbosa

Cập nhật thông tin chi tiết về Lan Mokara – Dân Chơi Lan trên website Duhocaustralia.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!