Xu Hướng 6/2023 # Kỹ Thuật Trồng Và Bón Phân Cho Cây Mía # Top 6 View | Duhocaustralia.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Kỹ Thuật Trồng Và Bón Phân Cho Cây Mía # Top 6 View

Bạn đang xem bài viết Kỹ Thuật Trồng Và Bón Phân Cho Cây Mía được cập nhật mới nhất trên website Duhocaustralia.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Cây mía và nghề làm mật, đường ở Việt Nam đã có từ xa xưa, nhưng công nghiệp mía đường mới được bắt đầu từ thế kỷ thứ XX. Tuy nhiên vùng nguyên liệu quy mô nhỏ bé, phân tán, chưa được đầu tư tương xứng với yêu cầu sản xuất công nghiệp. Chính vì vậy việc phát triển mía theo hướng thâm canh để đạt năng suất đường cao nhất trên một đơn vị diện tích là vấn đề thiết thực và đúng đắn. Để đạt được điều đó cần phải có biện pháp kỹ thuật tổng hợp từ làm đất, chọn giống, trồng, bón phân, chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh.

 Thời vụ: thời vụ trồng mía thường vào đầu và cuối mùa mưa. Vụ đầu mùa mưa trồng trong tháng 4-5 để sau khi mía nảy mầm sẽ có đủ nước cho mía sinh trưởng, phát triển. Cuối mùa mưa nên trồng trong tháng 9 -11 tùy theo vùng kết thúc sớm hay muộn. Vụ trồng này giúp mía kết thúc nảy mầm bắt đầu đẻ nhánh khi sang mùa khô và chịu đựng được khô hạn để đầu mùa mưa sẽ phát triển nhanh.

 Đất: mía có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau từ đất pha cát, đất xám đến đất sét nặng. Riêng đối với một số loại đất như: đất nhiều cát, ít chất mùn, ít giữ nước – phân, dẽ chặt. Đất chua, nhiều phèn (sắt và nhôm). Đất mất chất hữu cơ, đất bị chai do tập quán đốt lá mía sau thu hoạch, ta phải tiến hành cải tạo bằng cách bón phân chuồng (trâu, bò) tốt nhất là dùng phân hữu cơ như phân của công ty Hiếu Giang – Better, các loại tro dừa, tro rơm, tro trấu; Bón vôi, Đôlômít để hạ phèn hay bón các loại phân lân có tính kiềm như lân nung chảy, lân cải tạo đất. Có thể luân canh hoặc trồng xen canh cây họ đậu để làm đất tốt hơn.

1-      Làm đất: 

Tiến hành vệ sinh đồng ruộng để diệt trừ cỏ dại, mầm mống sâu bệnh, làm cho đất tơi xốp thông thoáng. Cày đất là khâu quan trọng giúp bộ rễ mía ăn sâu, chịu hạn, chống đổ và tăng khả năng cung cấp dinh dưỡng cho cây. Cày lần đầu cần sâu khoảng 40 – 50 cm, bừa kỹ, dọn sạch cỏ rác.

Bón 5 tấn phân hữu cơ sinh học Hiếu Giang Better hoặc 10-15 tấn phân chuồng (trâu, bò) và 1 – 1,5 tấn vôi bột/ha trước khi bừa lần cuối. Khoảng cách hàng trồng tùy theo điều kiện chăm sóc. Nếu xới bằng máy khoảng cách 1 – 1,2 m, nếu chăm sóc thủ công có thể trồng dày hơn khoảng 0,8 – 1 m. Đào hộc: rộng 20 – 30 cm, sâu 20 – 30 cm. Bón lót toàn bộ phân nền hữu cơ, phân lân và thuốc Basudin trước khi đặt hom 1 – 2 ngày.

2-      Chuẩn bị hom mía: 

Giống mía có vai trò rất quan trọng trong thâm canh mía. Phẩm chất hom giống là yếu tố quan trọng quyết định năng suất mía. Nếu hom giống chất lượng kém thì các biện pháp kỹ thuật khác cũng tác động không đáng kể đến năng suất. Để có năng suất đường cao cần chọn những giống có chữ đường cao, năng suất cao như: ROC 25, ROC 27, ROC 16, MEX… Chọn hom ta nên chọn hom không sâu bệnh, không lẫn giống, không xây xát, không quá già và cũng không quá non (tốt nhất là từ 6 -8 tháng tuổi). Hom mía phải có từ 2-3 mầm tốt. Ngâm hom trong nước 8-24 giờ đối với giống nảy mầm chậm. Tiến hành chặt mỗi hom hai mắt mầm, chặt ngang giữa lóng, không chặt sát mầm. Hom chặt xong đem trồng ngay là tốt nhất. Một ha cần từ 4 – 6 tấn hom giống, cũng có thể trồng từ 8 – 10 tấn/ha tùy theo loại giống và chất lượng giống

.                                                     

3-      Đặt hom: 

giống chuẩn bị xong là có thể đặt ngay. Hom đặt thành một hàng giữa rãnh mía, hai hom cách nhau từ 10 – 20 cm (tùy theo giống). Đối với nền đất ẩm khi đặt hom nên ấn nhẹ cho lún xuống nửa thân hom, để giữ ẩm cho mầm và rễ dễ phát triển. Ở nền đất khô, hom đặt xuống phải lấp một lớp đất mỏng để cố định hom và giữ ẩm.                                                                                                                

4- Xen canh cải tạo đất mía:

Bốn tháng đầu khi mới trồng hoặc chặt mía, giữa 2 hàng còn trống nên trồng xen đậu vừa tăng thu nhập vừa nâng cao năng suất mía.   – Chăm sóc: sau khi trồng 1 – 1,5 tháng tuổi nếu phát hiện có chết hom (dài hơn 50cm) nên tiến hành trồng giặm để đảm bảo mật độ bên cạnh đó nên làm sạch cỏ ở giai đoạn cây con để cỏ không cạnh tranh dinh dưỡng và ánh sáng với mía. Thực hiện kết hợp với 2 lần bón phân để vô chân cho mía.

5- Đánh lá mía: có thể đánh lá 3 lần cho mía tương ứng lúc mía khoảng 3, 6, 9 tháng tuổi (lúc này mía chuẩn bị thu hoạch).                                                               

6- Bón phân: (tính cho 1 ha)

* Đất chua (PH = 4-4,5) bón 1.000kg vôi sau khi cày lần cuối

* Lượng phân: 250-300kg Urê, 250-300Kg Supe lân, 200-240Kg KCL, 5 tấn phân hữu cơ sinh học Hiếu Giang Better hoặc phân chuồng 10-15 tấn.

* Cách bón: 

– Bón lót: Toàn bộ phân Chuồng, Lân 1/3 Đạm, ½ Kali. 

– Bón thúc lần 1: Khi mía kết thúc nảy mầm (4-5 lá) bón 1/3 lượng đạm. 

– Bón thúc lần 2: Khi mía kết thúc đẻ nhánh (9-10 lá) bón 1/3 lượng đạm và ½ lượng Kali còn lại                                                                          – Bón vá áo: Khi mía có lóng, nếu thấy mía xấu bón thêm 50-100Kg Urê/ha                                                                                                                                         

 7-  Xen canh cải tạo đất mía:

       Bốn tháng đầu khi mới trồng hoặc chặt mía, giữa 2 hàng còn trống vì vậy nên trồng xen đậu phụng hoặc đậu xanh vừa tăng thu nhập vừa nâng cao năng suất mía.  Tưới nước: Bình quân trong vụ mía thường tưới từ 15-20 lần. Thời kỳ mía nảy mầm, đẻ nhánh: tưới 4 lần/ tháng. Thời kỳ đẻ nhánh làm lóng:  2-3 lần/tháng. Mía làm lóng: 1-2 lần/tháng. Mía sắp thu hoạch phải bỏ nước từ 20 ngày trở lên.

Lưu ý: Đất trồng mía không được để nước ngập úng, phải thoát nước nhanh không để đọng nước vào mùa mưa. Sau khi trồng 10-15 ngày nếu gặp mưa nên xới phá váng. Phòng trừ sâu bệnh: bà con nên rải Basudin với liều lượng 20 kg/ha vào rãnh mía trước khi đặt hom. Chú ý thường xuyên thăm đồng để chặt và tiêu hủy các cây mía bị sâu bệnh tấn công để tránh lây lan.

Đối với đất mới khai hoang hoặc có mối dùng 20-30Kg thuốc Diaphos, Padan để rải.   Một số loại sâu bệnh như: sâu đục thân, rệp có thể dùng Diaphos, Padan, Supracide, Trebon, Bascide xịt, rải vào gốc mía. Riêng trường hợp cây bị nhiễm bệnh than nên đưa cây ra khỏi ruộng và đốt để tiêu hủy mầm bệnh. Ngoài ra, bà con có thể tiến hành bóc lá để hạn chế sâu bệnh, rệp, chuột và hạn chế ra rễ trên thân. Một số sâu bệnh chính thường gặp như: bệnh thối đỏ, bệnh than đen, sâu đục thân, sâu hại gốc, rệp trắng…  Cây mía là cây thu hoạch hàng năm, nhưng để lưu gốc nhiều năm. Nếu chăm sóc bón phân tốt năng suất vụ gốc thường tăng hơn so với vụ tơ. Thời gian chăm sóc vụ gốc sớm hơn, khẩn trương hơn, thu hoạch sớm hơn vụ tơ.

1. Sau khi thu hoạch không quá 3 ngày, phải đốt sạch hoặc dọn lá mía ra khỏi ruộng, dùng máy, trâu bò, cuốc cày xả hoặc cuốc hai bên hàng mía làm dứt lớp rễ già.

2. Dùng toàn bộ phân chuồng hoặc Phân hữu cơ sinh học Hiếu Giang Better, phân lân, 1/3 lượng đạm và ½ lượng Kali để bón lót. Bón thúc lần 1, lần 2 và bón vá áo. Căn cứ vào số lá mía như vụ tơ để bón nhưng lượng phân tăng 20-25% so với vụ tơ.

3. Việc chăm sóc tưới nước như vụ tơ

4. Lưu ý:  – Phải thu hoạch khẩn trương để đảm bảo độ đồng đều của ruộng mía.  – Không để lại những ruộng mía đã nhiễm sâu bệnh khó trị nhất là bệnh than.

  Thu hoạch: tùy từng giống mía ta trồng mà xác định được giai đoạn chín của mía. Quan sát màu da thân mía trở nên bóng, sậm, ít phấn, lá khô nhiều, độ ngọt giữa gốc và ngọn không chênh lệch là thu hoạch được.

Phân bón Hiếu Giang Better kính chúc bà con trúng mùa được giá!

Kỹ Thuật Trồng Và Tưới Tiêu Cho Cây Mía Đường

Kỹ thuật trồng và tưới tiêu cho cây mía đường

– Đất đồi, đất bãi và đất ruộng gồm các bước cày, bừa và rạch hàng để trồng:

+ Đất bãi và đất ruộng: Cày sâu 30 – 35 cm và bừa từ 2 đến 3 lần, rạch hàng 1 lần sâu từ 25 – 30 cm.

+ Đất đồi: Thiết kế hàng mía theo đường đồng mức (nơi có điều kiện áp dụng cày không lật với độ sâu 40 – 50 cm); làm đất trước khi trồng 40 – 60 ngày để phơi ải, diệt trừ nguồn sâu bệnh.

– Đất trũng vùng Đồng bằng sông Cửu Long phải lên líp (liếp) rộng 6,0 – 20 m, cao 25 – 35 cm. Rãnh trồng sâu 20 – 25 cm, đáy rãnh phủ lớp đất xốp dày 5 -1 0 cm. Đất bị nhiễm phèn thì liếp rộng 4,5 – 5 m, cao 25 – 35 cm. Đáy rãnh phủ lớp đất xốp dày 5 – 10 cm.

Cần thiết kế hệ thống tưới tiêu nước để kịp thời thoát nước mùa mưa và tưới bổ sung khi gặp khô hạn.

Tuỳ điều kiện đất đai từng vùng và nhu cầu nguyên liệu cụ thể cho từng nhà máy để bố trí tỷ lệ các nhóm giống chín sớm, chín trung bình và chín muộn cho phù hợp.

+ Có 2-3 mắt mầm tốt (mầm phía ngọn có đầy đủ bộ phận, có sắc tố đặc trưng; mầm phía gốc có vẩy mầm chưa hóa gỗ; mắt mầm không bị khô hoặc xây xát, dập nát), tỷ lệ rễ khí sinh dưới 10% số điểm rễ.

+ Không bị nhiễm sâu bệnh.

+ Có đường kính đạt trên 80% đường kính thân đặc trưng của giống và độ dài lóng không dài hoặc ngắn hơn quá 20% độ dài đặc trưng của giống.

– Nếu có điều kiện hoặc ở trình độ thâm canh cao, có thể sử dụng cây giống nuôi cấy mô hoặc bầu hom 1 mầm để trồng, thay thế cho phương pháp trồng bằng hom 2 – 3 mắt mầm như trên và phải tuân thủ theo quy trình kỹ thuật trồng, chăm sóc của cơ sở cung cấp giống.

– Mật độ: Tuỳ điều kiện đất đai và loại giống mía để bố trí mật độ, lượng hom giống cần từ 35.000 – 40.000 hom/ha (mỗi hom có 3 mắt), tương đương 8 – 10 tấn giống/ha.

– Khoảng cách hàng: Tùy việc canh tác thủ công hoặc bằng máy để bố trí khoảng cách hàng đơn từ 0,8 – 1,2 m (canh tác thủ công), hoặc hàng kép từ 1,2 – 1,8m x 0,6 – 0,4m (canh tác bằng máy).

– Cách trồng: Đặt hom theo rãnh hàng đơn (cách nhau 1 m) hoặc hàng kép (1,4m), phủ kín đất 3 – 5 cm (vụ trồng phụ) hoặc 7 – 10 cm (vụ trồng chính). Đất khô cần nén chặt cho hom tiếp xúc với đất. Trong vụ trồng chính nếu có điều kiện nên tưới ẩm sau khi trồng và sử dụng màng phủ nông nghiệp giữ ẩm và hạn chế cỏ dại cho mía.

– Kỹ thuật dặm: Đào rãnh sâu ngang với đáy rãnh lúc trồng, đặt cây dặm và lấp kín gốc. Khi dặm đất phải đủ ẩm, cây đem dặm phải cắt bớt lá để hạn chế thoát hơi nước, nén chặt đất vào gốc cây dặm. Nếu có điều kiện cần tưới ngay sau khi dặm.

a) Lượng phân bón cho 1 ha mía:

– Vôi: Đất trồng mía có pHdưới 5, cần bón lót vôi bột (CaO) trước lần cày bừa cuối cùng, với lượng từ 800 – 1.000 kg/ha.

– Phân hữu cơ: 10 – 20 tấn (phân chuồng, phân rác, bã bùn, tro,…) hoặc thay thế bằng 1 – 3 tấn phân hữu cơ vi sinh.

– Phân hoá học: Tùy theo loại đất, vụ mía và điều kiện canh tác ở mỗi vùng mà điều chỉnh lượng phân bón sao cho phù hợp.

– Lượng phân bón cho mía gốc tăng hơn mía tơ từ 10 – 20%.

– Khi bón phân đơn hoặc phân NPK hỗn hợp, cần quy đổi hàm lượng N, P2O5, K2O tương đương với tỷ lệ nêu trên. Tuỳ theo mức độ thâm canh để đạt được năng suất mía khác nhau mà bón với lượng khác nhau. Ở những vùng có lượng mưa lớn, xói mòn mạnh nên bón bổ sung các phân có chứa trung và vi lượng như sắt, man-gan và ma-nhê.

– Bón lót: Toàn bộ phân hữu cơ, phân lân, 1/3 lượng đạm và 1/3 lượng kali. Trường hợp cần phải xử lý mối và bọ hung thì bón thêm thuốc trừ sâu được phép sử dụng theo khuyến cáo của nhà sản xuất. Ngay sau khi bón lót, nên lấp 1 lớp đất mỏng 1 – 3 cm rồi mới đặt hom.

– Bón thúc lần 1 (thúc đẻ): Khi mía 4 – 5 lá, bón 1/3 lượng đạm và 1/3 lượng kali.

– Bón thúc lần 2 (thúc lóng): Khi mía 9 – 10 lá (khi mía có 1 – 2 lóng), bón 1/3 lượng đạm và 1/3 lượng kali. Nếu đất khô hạn hoặc nhiễm phèn mặn thì nên bón bổ sung thêm 1 lần qua lá.

Lưu ý: Trước khi bón thúc, ruộng phải dọn sạch cỏ dại, đất phải đủ độ ẩm. Phân được rải đều dọc theo hàng mía. Sau khi bón phân phải xới xáo vùi lấp phân để hạn chế bốc hơi, rửa trôi.

– Chỉ tiến hành tưới nước bổ sung cho mía vào các giai đoạn khô hạn kéo dài, đặc biệt là giai đoạn mọc mầm, đẻ nhánh và bắt đầu vươn lóng. Dừng tưới cho cây mía trước khi thu hoạch 1 tháng.

– Phương pháp tưới: Tùy theo điều kiện, có thể áp dụng các phương pháp tưới nước cho mía phổ biến như tưới thấm, tưới tràn theo rãnh mía, mà để đạt hiệu suất cao thì nên áp dụng phương pháp và

Phương pháp tưới nhỏ giọt.

– Lượng tưới: 40-50 mm/lần tưới, tương ứng với 400 – 500 m3/ha/lần tưới. Tưới 1 – 2 lần/tháng.

b) Tiêu nước: Mía cần nhiều nước nhưng chịu úng rất kém, đặc biệt là thời kỳ cây con và thời kỳ vươn lóng. Để tránh bị úng, ruộng trồng mía phải bằng phẳng, thiết kế hệ thống tiêu nước ngay sau khi trồng, xung quanh ruộng cần có rãnh, mương đấu nối với hệ thống thoát nước để tránh bị đọng nước sau khi mưa to. Không nên để mía bị ngập úng quá 1 tuần.

Phương pháp phun mưa.

– Những nơi có diện tích lớn, tập trung, ruộng bằng phẳng, có điều kiện cơ giới có thể dùng máy kéo liên hợp với máy xới như: máy xới răng nhọn, máy xới cánh én, máy xới kiểu đĩa,… để diệt cỏ giữa 2 hàng mía, đảm bảo cho đất tơi, xốp, thoáng khí, giúp mía sinh trưởng tốt.

– Xới vun cho mía: Thực hiện 2 lần:

+ Lần 1: Khi mía kết thúc mọc mầm (sau trồng hoặc sau thu hoạch vụ trước 30-40 ngày).

+ Lần 2: Khi mía kết thúc đẻ nhánh (sau trồng hoặc sau thu hoạch vụ trước 60-80 ngày).

– Chỉ dùng máy xới khi đất đủ ẩm, xới giữa 2 hàng mía cách gốc mía khoảng 20 cm.

Lưu ý: Nếu trồng hàng kép cần tăng cường làm cỏ giữa 2 hàng kép.

1.5. Phòng trừ cỏ dại:

Cần tiến hành làm cỏ sớm, đặc biệt là ở giai đoạn mía dưới 4 tháng tuổi, phải đảm bảo ruộng mía luôn sạch cỏ dại.

a) Biện pháp thủ công: Dùng cuốc, tay hoặc trâu, bò cày xới giữa hàng để diệt cỏ trong hàng mía.

+ Ngay sau khi trồng: Nếu đất có nguồn cỏ nhiều có thể phun một trong các loại thuốc tiền nảy mầm như: Gesapax 500FW (3-4 lít/ha), Ansaron 80WP (2-3 kg/ha), Mizin 80WP (3-6 kg/ha) hoặc Dual Gold 906EC (0,5-0,6 lít/ha), tiến hành phun phủ toàn bộ ruộng, trong phạm vi từ 2-5 ngày sau khi trồng. Chú ‎ý khi phun thuốc đất phải đủ ẩm.

+ Giai đoạn 30-40 ngày sau trồng: Có thể sử dụng thuốc Gesapax 500FW (3 -4 lít/ha), phun vào giữa các hàng mía (tránh phun vào ngọn, lá mía).

+ Giai đoạn 2-4 tháng sau khi trồng: Nếu thấy cỏ xuất hiện nhiều do làm cỏ không kịp hoặc do trước đó không trừ cỏ, có thể sử dụng thuốc trừ cỏ tiếp xúc Gramoxone 20SL, liều dùng từ 2-2,5 lít/ha (trừ cỏ lớn), trộn với 2-2,5 lít thuốc Gesapax 500FW hoặc 2-2,5 kg thuốc Ansaron 80 WP (trừ cỏ non và hạn chế cỏ mọc trở lại) phun vào giữa các hàng mía, tránh phun lên mía.

+ Giai đoạn trên 4 tháng sau khi trồng: Nếu thấy có nhiều cỏ xuất hiện trở lại, có thể sử dụng thuốc Gramoxone 20SL để phun trừ như trên, với lượng dùng từ 2-2,5 lít/ha, nếu ruộng mía có nhiều cỏ 2 lá mầm, có thể trộn thêm khoảng 1 lít thuốc 2,4 D (Zico 48 SL). Ở giai đoạn này cần phải làm sạch cỏ để tránh lây lan sang vụ mía gốc.

– Dùng thuốc Basudin 10G hoặc Diaphos 10H với liều dùng 20-30 kg/ha hoặc Padan 4G với liều dùng 30 kg/ha rải vào rãnh mía trước khi đặt hom hoặc rải vào sát gốc mía trước khi vun.

– Cắt bỏ cây mầm bị sâu và làm sạch cỏ.

– Khi có điều kiện thì thả ong mắt đỏ từ tháng thứ 3-8 sau trồng hoặc thu hoạch, định kỳ 15 ngày thả 1 lần với liều lượng thả là 50.000 ong/ha/lần.

– Làm sạch cỏ, bóc và cắt lá già cho ruộng mía thông thoáng.

– Khi thấy rệp xuất hiện, cần tổ chức diệt trừ dứt điểm không để lây lan bằng thuốc Trebon 10EC hoặc Supracide 40EC, pha nồng độ 0,1-0,15%, mỗi héc-ta sử dụng từ 1-1,5 lít thuốc, phun ướt đẫm đều khắp mặt lá, phun thật kỹ, tập trung những nơi có ổ rệp.

c) Bọ hung đục gốc: Khi có nhiều bọ hung xuất hiện, trước khi vun gốc lần 1 rải thêm 25 – 30 kg thuốc Sago Super 3G vào gốc mía rồi vun đất.

– Kịp thời nhổ bỏ và tiêu huỷ cây mía bị bệnh.

– Ruộng mía bị bệnh nặng không nên để mía lưu gốc và phải luân canh cây họ đậu từ 1- 2 năm.

– Cắt lá bệnh và tiêu huỷ.

– Dùng thuốc boóc-đô hoặc sun-phát đồng trộn với vôi bột và đất bột theo tỷ lệ 10:40:50, rắc vào ngọn mía.

e) Bệnh chồi cỏ, bệnh trắng lá:

– Tổ chức hệ thống sản xuất, cung ứng và hoàn toàn sử dụng hom giống sạch bệnh 3 cấp.

– Phun thuốc trừ sâu hoặc dùng bẫy đèn thu bắt, diệt côn trùng môi giới truyền bệnh.

– Với đất tốt, cơ cấu chu kỳ luân canh 5 năm: 1 tơ + 3 gốc + 1 luân canh.

– Với đất đồi, đất xấu chu kỳ luân canh 4 năm: 1 tơ + 2 gốc + 1 luân canh.

Cây trồng luân canh với cây mía: sử dụng cây họ đậu để nhằm mục đích cải tạo đất.

– Ngay sau khi trồng mía, tiến hành rạch 1-2 hàng dọc giữa 2 hàng mía, bón phân lót, gieo hạt, lấp đất đủ kín hạt.

– Sau khi thu hoạch các cây trồng xen, nhanh chóng nhổ hết thân lá cây trồng xen, rải dọc theo chiều dài hàng mía, kết hợp bón phân thúc cho mía, xới giữa hai hàng mía để vùi lấp phân bón và thân lá cây trồng xen vào đất.

– Cây trồng xen canh với cây mía: Sử dụng cây ngắn ngày, có thời gian sinh trưởng < 3 tháng như cây ớt, cây họ đậu, cây mè, dưa hấu,… ưu tiên cây họ đậu.

– Chỉ lưu gốc những ruộng mía có năng suất cao, ít bị sâu bệnh, tỷ lệ mất khoảng < 20%.

– Sau khi thu hoạch xong phải tiến hành vệ sinh đồng ruộng ngay. Dùng cuốc, dao để bạt (phạt) sát đất những gốc cao; loại bỏ cây mầm, cây bị sâu bệnh hay cỏ dại sót lại từ vụ trước.

– Thu hoạch khi đất khô cần che phủ ruộng mía lưu gốc bằng nguồn ngọn, lá mía; gom ngọn lá mía xung quanh ruộng vào trong ruộng để tạo khoảng cách phòng chống cháy.

– Thu hoạch khi đất đủ ẩm cần gom ngọn, lá mía từng hàng xen kẽ, kết hợp dùng trâu, bò cày xả hai bên luống để làm đứt các rễ già và xới vun luống, hoặc gom ngọn lá, mía cách 2 hàng kết hợp cày xả và xới vun luống bằng cơ giới, sau đó phủ ngọn lá mía trở lại toàn bộ mặt ruộng. Sau khi cày xả tiến hành bón phân lần 1 cho ruộng mía gốc với 100% phân lân phối trộn với 100% phân hữu cơ, 1/3 lượng phân đạm và 1/2 lượng phân kali, sau đó mới vun xới luống.

– Sau khi áp dụng các biện pháp chăm sóc mía gốc ban đầu như trên và khi thấy mía tái sinh đều, cần tiến hành kiểm tra và dặm những chỗ mất khoảng 0,8 m. Phương thức dặm tương tự như ở vụ mía tơ, nhưng phải lưu ý đảm bảo đủ ẩm cho bụi mía sau khi trồng dặm.

– Lượng phân và cách bón phân cho ruộng mía gốc:

+ Lượng bón: Tùy theo loại đất và điều kiện canh tác ở mỗi vùng mà điều chỉnh lượng phân bón sao cho phù hợp.

+ Kỹ thuật bón:

Lần 1: Sau thu hoạch khoảng 1 tháng (đối với đất chủ động tưới) hoặc đầu mùa mưa (đối với canh tác nhờ nước trời): Bón 100% lượng lân, 1/2 lượng đạm và 1/2 lượng kali.

Lần 2: Khi mía bắt đầu vươn lóng hoặc sau lần thúc 1 khoảng 40-60 ngày, bón 1/2 lượng đạm và 1/2 lượng kali.

– Các biện pháp chăm sóc, làm cỏ, xới xáo, phòng trừ sâu bệnh thực hiện tương tự vụ mía tơ.

– Theo cảm quan khi mía chín: Lá mía sít lại, ngả màu hơi vàng nhạt, các đốt phần trên ngọn ngắn lại.

– Dùng máy kiểm tra: Lấy mẫu ngẫu nhiên đem phân tích, khi mía đạt CCS ³ 9,0% mới bắt đầu thu hoạch.

– Theo loại mía: Mía gốc thu hoạch trước, mía tơ thu hoạch sau.

– Theo loại giống: Giống chín sớm thu hoạch trước, rồi đến giống chín trung bình và cuối cùng là giống chín muộn.

– Năng suất mía thu hoạch lý thuyết (tấn/ha) được xác định bằng công thức:

Năng suất mía thu hoạch lý thuyết (tấn/ha) = Mật độ cây hữu hiệu (1.000 cây/ha) x khối lượng cây trung bình (kg/cây).

Trong đó, mật độ cây hữu hiệu và trọng lượng cây được xác định bằng việc lấy mẫu trung bình ngoài đồng ruộng.

– Ước lượng chất lượng mía trước thu hoạch:

+ Sử dụng Brix kế cầm tay, xác định độ Brix (Bx%) của mía. Khi đó có thể ước lượng được chữ đường (CCS%) bằng công thức:

Bx gốc + Bx ngọn

+ Lấy mẫu mía đem phân tích trong phòng có thể xác định được chính xác chữ đường (CCS%).

Thu hoạch mía

– Yêu cầu khi thu hoạch: Phải chặt sát gốc, không dập gốc, chặt ngọn ló “mặt trăng”. Róc sạch rễ lá, đạt tiêu chuẩn mía nguyên liệu.

– Dụng cụ thu hoạch: Sử dụng dao hoặc rìu chặt mía chuyên dùng, được mài sắc trước mỗi lần sử dụng.

– Mía được làm sạch tạp chất (lá, bẹ, rễ…) bó thành từng bó từ 10-15 kg và gom thành từng đống 30-50 bó nhằm giúp quá trình bốc xếp thuận lợi.

– Thu hoạch xong nên dùng bạt che phủ tránh nắng bốc hơi, giảm lượng đường và phải vận chuyển ngay đến nơi chế biến trong vòng 24 giờ.

– Hạn chế các phương tiện vận chuyển đi vào các ruộng mía lưu gốc.

– Thời gian thu hoạch mỗi ruộng mía không quá 5 ngày tạo sự nảy mầm đồng đều để dễ chăm sóc mía gốc.

– Sử dung vi sinh vật phân hủy lá mía hoặc tủ gốc để giữ ẩm, hạn chế cỏ dại và tăng hữu cơ cho đất.

Bên cạnh việc chăm sóc như bón phân, phun thuốc phòng và chống sâu bệnh thì việc tưới tiêu cho diện tích lớn đất trồng mía là vô cùng quan trọng và cần thiết. Trong trường hợp này, giải pháp tưới tối ưu nhất cho bà con là và tưới nhỏ giọt trải luống trên diện rộng. Cụ thể là sử dụng các loại béc và súng tưới:

http://tuoinongnghiepvn.com/bec-tuoi-ducar-tho-nhi-ky

hoặc bà con có thể tham khảo tại chúng tôi để được tư vấn cụ thể chi tiết hơn:

Mọi chi tiết xin liên hệ: Website: chúng tôi Hotline: Mr Chính: 096.235.0704.

Khi Cây Mía “Bỏ Phiếu” Cho Phân Bón Văn Điển

  Hiển nhiên là cây mía không thể tự chọn phân bón “hợp khẩu vị” nhất. Nhưng theo cách riêng của mình, nó “biết” thông qua chuyển hoá dinh dưỡng từ đất đai và phân bón mà người nông dân chăm sóc cho nó, thành sản phẩm với sự ngọt ngào khác nhau.  

  Thanh Hóa là một trong những tỉnh có diện tích mía lớn nhất cả nước với diện tích trên 27.000ha, chủ yếu phục vụ nguyên liệu cho 3 nhà máy mía đường lớn trong tỉnh là nhà máy Lam Sơn, Việt Đài, Nông Cống. Còn tỉnh Hòa Bình cũng là một trong những tỉnh miền núi phía Bắc, có diện tích trồng mía lớn, tập trung ở các huyện Tân Lạc, Cao Phong, Lạc Sơn, Kim Bôi. Trong đó, huyện Kim Bôi được mệnh danh là thủ phủ của cây mía với tổng diện tích trồng trên 9.000ha.

Cây mía vẫn có thể “ngọt ngào” trên đất nghèo dinh dưỡng

  Đất trồng mía của Thanh Hóa, Hòa Bình chủ yếu là đất đồi, đất bãi, đất vườn… Đây chủ yếu là đất màu vàng tạo ra qua quá trình phong hóa đá feralit, có tầng canh tác dày, đất chua, nhiều nơi rất chua pH: 3,8-4,2. Tính chất chung của loại đất này là nghèo lân, kali, đạm dễ tiêu; nghèo silic, magie, canxi; thiếu nhiều dinh dưỡng vi lượng; lượng mùn trong đất thấp, chỉ dưới 2%. Hầu hết địa hình đất trồng mía là đồi dốc, dễ bị rửa trôi nên đa phần các loại đất trồng mía ở Thanh Hoá, Hòa Bình có độ pH thấp, nghèo dinh dưỡng, chưa đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng của cây mía.

  Từ phía con người, khâu sử dụng phân bón của nông dân cũng còn nhiều bất cập như: Quen sử dụng phân đơn; không cân đối phân bón: phân đạm đầu tư cao; phân kali, phân lân đầu tư thấp, hầu như bỏ quên các loại dinh dưỡng như can xi, magie, silic, lưu huỳnh và vi lượng. Các loại phân bón tổng hợp NPK thông thường được dùng cũng thiếu các chất dinh dưỡng trung, vi lượng. Đất cao lại dốc, bón loại phân lân gốc axit tan nhanh, vừa dễ bị rửa trôi khi gặp mưa, vừa thêm chua cho đất, trong khi cây mía ưa đất có tính kiềm pH 6-7,5. Nếu thiếu phân bón hoặc bón nhiều đạm hoặc các loại phân NPK khác thiếu các dinh dưỡng trung, vi lượng sẽ làm  cây mía hình dáng “chân hương” (gốc nhỏ, ngọn to) và màu không đẹp, giảm năng suất, chất lượng kém.

  Theo phân tích của kỹ sư Nguyễn Tiến Chinh – nguyên cán bộ Trung tâm Khuyến nông tỉnh Thái Bình, tuy cùng họ Poaceae với cây lúa, song cây mía sống ở trên cạn, có bộ rễ phát triển khỏe, khả năng phá vỡ các tầng đất sâu hơn cây lúa nên khả năng len lỏi, tìm kiếm dinh dưỡng tốt hơn. Mía có thể trồng được trên rất nhiều loại đất kể cả trên đất phèn thoát nước tốt. Mía cho năng suất sinh học cũng như năng suất kinh tế cao. Với giống mía cao sản, mỗi hecta một năm có thể cho từ 150-200 tấn, cá biệt còn có thể lên đến 260 tấn. Thời gian sinh trưởng của mía dài từ 10-15 tháng, nên yêu cầu các chất dinh dưỡng cao hơn các cây trồng khác.

  Phân tích cây mía khi thu hoạch cho thấy, ruộng mía có năng suất 100 tấn mía cây, cây lấy đi hết 142 – 200 kg đạm (N), 42 -85 kg lân (P205), 314 – 425 kg kali (K20), 40 kg can xi (CaO), 47 kg magie (MgO), 25 kg lưu huỳnh (S), 400 – 600 kg silic (Si), 6 kg natri (Na), 2 – 3 kg sắt (Fe), 1 kg mangan (Mn), 0,11 – 0,05 kg đồng (Cu), 0,02 – 0,05 kg kẽm (Zn), 0,1 – 0,2 kg bo (B) và 0,001 kg molypden (Mo).

  Trong các dinh dưỡng đa lượng, cây mía có nhu cầu kaly cao nhất, sau đó đến nhu cầu đạm và lân. Ngoài ra, mía còn có nhu cầu ít hơn đối với một số chất trung và vi lượng như silic, magie, canxi, kẽm, bo…

Sản phẩm người ta cần ở cây mía là lượng đường chứa trong cây. Lượng đường và chất lượng đường phụ thuộc rất nhiều vào số lượng và tỷ lệ các chất dinh dưỡng cung cấp cho mía. Trong đó kali và canxi có ảnh hưởng rất lớn. Riêng chất silic có nhu cầu rất lớn đối với các loại cây họ hòa thảo như mía. Mía có nhu cầu silic gấp hơn 4 lần nhu cầu về đạm;  silic  làm cứng cây, hạn chế đổ, tăng khả năng chống hạn, chống sâu bệnh, giảm độc mangan, tạo diệp lục, tăng hàm lượng gluxit, tinh bột, đường trong cây.

Vì sao phân bón Văn Điển là “ứng viên số một”?

Nói về vai trò của phân bón, các nhà khoa học chỉ dẫn: Phân bón chiếm tới 50% các yếu tố cấu thành năng suất cây mía, phân bón góp phần điều chỉnh quá trình sinh trưởng, quá trình tích lũy đường và khả năng chống chịu (với gió bão, sâu bệnh…). Do vậy, việc lựa chọn loại phân bón thích hợp, bón đúng kỹ thuật, đủ số lượng theo yêu cầu của cây mía và phù hợp với tính chất đất là rất cần thiết.

  Theo phân tích của kỹ sư Nguyễn Tiến Chinh, từ thực tế của nhiều vùng trồng mía ở Thanh Hoá, Hoà Bình, bà con nông dân có thể hoàn toàn yên tâm chọn sử dụng phân nung chảy Văn Điển. Đây là loại phân bón có nhiều ưu điểm với 3 loại quặng khoáng thiên nhiên: Apatít, secpentyl, sa thạch, cộng với công nghệ nung chảy đã cho ra sản phẩm phân bón đa dinh dưỡng, trong đó P2O5 đạt từ 15-19%, MgO đạt từ 15-18% ,SiO2 đạt từ 24-32%, CaO đạt từ 28-34%, và nhiều  chất vi lượng Fe, B, Mn, Zn, Co, Cu, Mo… Sản phẩm này không tan trong nước nên không bị thất thoát do rửa trôi, bay hơi hay bị chất khác giữ bám; chỉ tan trong môi trường acid yếu do rễ cây tiết ra, được cây “ăn” từ từ trong suốt quá trình sinh trưởng phát triển.

Ngoài phân lân nung chảy, Công ty cổ phần phân lân nung chảy Văn Điển còn sản xuất ra các loại phân đa yếu tố NPK Văn Điển chuyên bón cho mía như:

-Phân ĐYT NPK 16.6.16 Văn Điển giàu chất dinh dưỡng với thành phần cân đối và hợp lý: N =16%, P2O5 =6%, K2O =16%, S= 2%, MgO =5%, CaO= 8%, SiO2 =7% và các chất vi lượng Zn, B, Cu, Mn, Co.

 –Phân ĐYT NPK 12:8:12 có N=12%, P2O5 =8%, K2O=12%, S=6%, MgO=6%, CaO=8%, SiO2=9% và các chất vi lượng khác.

–Phân ĐYT NPK 10.5.12 có tỷ lệ dinh dưỡng cao và có đầy đủ các chất đa lượng, trung lượng và vi lượng: N=10%, P2O5=5%, K2O=12%, S=3%, MgO=7%, CaO=7%, SiO2=6% và các chất vi lượng khác.

Cách bón phân: Đúng – đủ – kịp thời

Nhà nông bón phân cho mía phải đạt được 3 yêu cầu cơ bản là  đúng – đủ – kịp thời. Do vậy, bón phân cho mía nên kết hợp bón phân lân nung chảy Văn Điển với phân đa yếu tố NPK Văn Điển sẽ có hiệu quả cao hơn. Theo hướng dẫn của kỹ sư Nguyễn Tiến Chinh, nếu tính theo diện tích sào Bắc Bộ (360m2) thì công thức bón như sau:

Bón lót:  Làm đất trồng mía là phải cày sâu để tạo điều kiện cho bộ rễ phát triển theo chiều sâu và rộng, giúp cây phát triển nhanh, chống đổ tốt và.tăng khả năng chống hạn của mía ở những tháng ít mưa đặc biệt là đất đồi. Sau khi tạo rạch, bón mỗi sào 5-7 tạ phân hữu cơ, 30-40kg/sào (360m2)  phân lân Văn Điển, đảo phân rồi lấp đất, đặt hom.

Bón thúc:

– Đợt 1, khi mía đẻ nhánh, 1 sào bón 30-40kg

, công thức 12-8-12 hoặc ĐYT NPK Văn Điển, công thức 16-6-16.

– Đợt 2, khi mía bắt đầu vươn lóng, bón 1 sào: 25-30kg một trong hai loại phân trên. Cuốc xả hai bên mép luống cách gốc 20-30cm, sâu 15-20cm, bón phân lấp đất kết hợp với tưới đủ ẩm.

Lưu ý:

– Mía gốc cần bón phân nhiều hơn mía tơ khoảng 10-15% lượng phân bón các loại.

– Bón phân Văn Điển là phải vùi sâu và lấp đất kín, không hòa nước để tưới. Phân không nên rải trên mặt đất, phải vùi sâu vừa hạn chế hiện tượng rửa trôi, sói mòn, vừa đảm bảo cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho cây mía trong cả chu kỳ sinh trưởng.

Cây mía được bón phân lân nung chảy Văn Điển và phân bón ĐYT NPK đảm bảo đầy đủ và cân đối dinh dưỡng đa lượng và các các dinh dưỡng trung, vi lượng rất cần thiết cho cây trồng, tạo cho cây mía khoẻ, thân mập, lóng to, mắt nhỏ, lá phát triển dựng đứng, màu xanh sáng tăng khả năng quang hợp, cứng cây tăng sưc chống đổ và chống sâu bệnh tốt hơn. Với mía trắng, cây to, chắc, không bị xốp ruột như bón nhiều đạm, nước ngọt, không chua. Mía tím màu cây tím đen mượt, tăng vị ngọt thơm, tăng sức hấp dẫn khách hàng.

Thực tế cho thấy, qua nhiều năm sử dụng phân bón Văn Điển, năng suất mía và hàm lượng đường trong mía Thanh Hóa, nhất là các huyện Thạch Thành, Nông Cống, Như Thanh… đã tăng rõ rệt. Phân bón Văn Điển cũng đã góp phần làm cho cây mía tím Hòa Bình trở thành niềm tự hào của bà con người Mường ở tỉnh Hòa Bình. Đặc biệt, đầu năm 2019 vừa qua cây mía tím Hòa bình lần đầu tìm được đường xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.

↔Bảng giá sản phẩm : https://vandienfmp.vn/bang-gia-phan-bon

↔Liên hệ mua hàng : Đại Lý Bán Hàng

↔ Điện thoại : 023.688.4489, 023.688.5174 Fax: 023.688.4277

↔E-mail : vandienfmp@gmail.com

↔ Liên hệ fanpage công ty : https://www.facebook.com/vandienfmp.vn/

                                                                                                                       Trọng Hòa – Nam Phong

Kỹ Thuật Trồng Và Bón Phân Cho Cây Nho

I- ĐẶC TÍNH: Cây nho (Vitis vinifera) hiện được trồng phổ biến ở các nước thuộc vùng ôn đới và bán ôn đới. Ở nước ta nho trồng tập trung ở Ninh Thuận với diện tích khoảng 2.500 ha. Cây nho sinh trưởng và phát tốt trên đất phù sa, giàu chất dinh dưỡng, thoát nước tốt. Trên đất cát, đất lẫn sỏi đá ở các triền đồi cũng có thể trồng được nho miễn là có nhiều mùn, giàu chất dinh dưỡng, có điều kiện tưới nước vào mùa khô và thoát nước vào mùa mưa. Độ pH thích hợp cho cây nho cần có điều kiện khí hậu khô, độ ẩm không khí thấp, lượng mưa ít , nếu mưa nhiều kéo dài dễ làm bệnh phát sinh phát triển mạnh.

– Muốn trồng nho, trước hết phải tìm hiểu kỹ về điều kiện thời tiết khí hậu. Không phải quan tâm đến độ nhiệt ở miền Nam vì những nơi rét nhất như Đà Lạt, vẫn còn là nóng đối với nho, vả lại nho đã thích nghi tốt với độ nhiệt cao, thậm chí nắng to cũng không làm nám trái như với dứa, cam nhờ có giàn che.Cơ bản nhất là phải có khí hậu khô nhiều nắng, độ ẩm không khí thường xuyên thấp. Vùng Ninh Thuận có lượng mưa thấp nhất nước 750 – 850 mm/năm và không khí tương đối khô. Tuy nhiên, lượng mưa quá cao tập trung vào những tháng cuối năm (tháng 9, 10, 11…) kết hợp với độ nhiệt cao làm cho bệnh phát triển mạnh và phải phun thuốc nhiều lần vào thời kỳ này.

Ở nhiều nơi khác ở miền Nam, vẫn có thể trồng nho kinh doanh với điều kiện là phải có mùa khô 4, 5 tháng nắng, và đất không bị úng nước mùa mưa do rễ nho là nơi xúc tích dự trữ của cây, rất mẫn cảm với tình trạng thiếu oxy. Cũng phải tính toán nên thu hoạch 1 vụ hay 2 vụ vì những nơi mưa nhiều chi phí về phun thuốc cộng với khả năng ô nhiễm môi trường làm giảm hiệu quả kinh tế của việc trồng nho.Gió to không những có thể làm dập nát lá, chùm nho, còn có thể làm đổ giàn, vậy nên trồng nho ở những nơi hứng nắng, nhưng được che chắn kỹ. Những vùng hay có gió bão không thuận tiện.Đất phù sa ven sông Dinh (Ninh Thuận), sâu, giàu chất dinh dưỡng, luôn thoát nước, là đất nho rất tốt. Tuy nhiên theo điều tra khảo sát của nghành nông nghiệp thì đất thịt, đất cát, đất lẫn sỏi đá ở các triền đồi, đều có thể trồng nho nếu đầu tư phân hữu cơ và phân khoáng với lượng cao, cũng phải có điều kiện tưới nước về mùa khô và bao giờ cũng phải thoát nước.

Độ pH thích hợp cho nho là pH = 6,5 – 7,0 nếu pH dưới 5 phải bón thêm vôi. Vùng Ninh Thuận mưa ít pH hay gặp là 6 – 7 có khi vượt 7 ở các đất phèn và trường hợp này phải rửa phèn. Đất phải nhiều mùn, vì thế phải bón nhiều phân hữu cơ. Vẫn theo điều tra của Nha Hố ở 30 điểm trồng nho vùng Ninh Thuận tỷ lệ mùn trong đất thường là 2% trong 100 g đất hàm lượng lân dễ tiêu là 77,76 mg và 44,47 mg kali trao đổi là những chỉ tiêu cao.

Tóm lại, nho ưa khí hậu khô và nhiều nắng. Có những điều kiện này thì những điều kiện khác, ví dụ về đất, về ánh sáng v.v… cũng thuận tiện theo, sợ nhất là mưa vì mưa làm rụng hoa, rụng trái, và nhất là tạo điều kiện cho nhiều bệnh nguy hiểm phát triển.

II- GIỐNG VÀ NHÂN GIỐNG: Tất cả các giống nho trồng trong sản xuất hiện nay đều từ nước ngoài nhập vào từ thời Pháp thuộc và nhất là trong thời kỳ trước 1975. Nơi tập trung trồng nhiều giống nhất là Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Nha Hố nay là Viện Nghiên cứu Bông và từ đó các giống nho đã phổ biến vào trong sản xuất ở tỉnh Ninh Thuận và các tỉnh khác.

Qua nhiều năm đào thải hiện chỉ còn lại trong sản xuất 4 giống trong đó giống Muscat blanc gần như không được trồng nữa, mặc dù thơm ngọt nhưng có một nhược điểm rất quan trọng là vỏ mỏng trái dễ vỡ, không chịu khi vận chuyển.Hiện nay giống Cardinal chiếm tới 99% diện tích trồng nho cả vùng Ninh Thuận:

1. Cardinal (nho đỏ) không chỉ là giống quan trọng của Việt Nam mà cả của các nước quanh vùng như Philippines, Thái Lan v.v… và có nhiều ưu điểm quan trọng : mã đẹp, dễ vận chuyển, sinh trưởng nhanh, chất lượng khá.

2. Cardinal có một ưu điểm nữa hơn các giống khác đã được nhập vào Việt Nam, từ cắt cành đến chín chỉ khoảng 90 ngày, với 1 tháng ngủ nghỉ trước khi lại cắt để cho ra trái vụ sau, tổng cộng 4 tháng cho 1 vụ, một năm có thể thu ba vụ, tiêu chuẩn kinh tế quan trọng của người trồng nho hiện nay.

– Đặc điểm của nghề trồng nho là phải cho cây leo giàn. Ở các nước nhiệt đới khác người ta dùng cọc hình chữ T bằng sắt hoặc bằng bê tông, tay dọc chữ T cắm sâu xuống đất, tay ngang buộc năm dây thép cách nhau đều. Tay ngang rộng từ 1,2 m đến 1,5 m. Chiều cao từ tay ngang tới mặt đất từ 1,2 m đến 2 m tùy vùng. Cao thì thoáng nhưng dễ đổ do sức nặng của cả hàng cây, đặc biệt khi mang trái. Hai cột hai đầu phải đóng cọc gia cố.

– Ở Ninh Thuận bà con làm giàn. Giàn nho thông thường gồm hai hay nhiều hàng cọc. Trên đầu cọc, cao độ 1,8 m – 2,0 m, giăng một giàn dây thép ngang dọc cho nho leo. Giàn to thì phải gia cố những hàng cọc phía rìa bằng những thanh gỗ, thanh sắt, sào tre v.v… đủ vững để không sụp đổ, dưới sức nặng của cành lá và trái nho.Cho nho leo và cắt tỉa: Cho leo giàn không có gì khó. Dùng một cái sào, hoặc cọc gỗ lớn bằng ngón tay cái, cắm gần gốc nho, cắm dựng đứng. Chọn trong các ngọn nho ngọn khỏe nhất buộc cho leo lên giàn. Bao nhiều ngọn phụ, hoặc cành sinh ra sau này cắt hết, sát đến tận nách lá để có một thân duy nhất to khỏe. Khi ngọn chính đã lên tới giàn, ngắt búp sinh trưởng để cho các cành cấp 1 phát triển.

Ngọn của thân chính sau khi vươn tới giàn thì ngắt đi. Trong các cành mọc từ thân ra chọn lấy hai cành khỏe nhất, buộc vào dây thép cho phát triển theo hai hướng ngược. Hai cành cấp 1 này sẽ trở thành 2 tay, buộc chặt vào dây thép bằng một loại dây có thể tự hủy được (đay, bẹ chuối, vỏ cây leo, dây ni lông v.v…). Không dùng dây thép vì sẽ thắt lấy tay, cản trở lưu thông của nhựa. Khi tay đã mọc dài 1 – 1,2 m lại bấm ngọn để lại trên mỗi tay một số cành cấp 2 gọi là cành quả. Cành quả cũng buộc vào dây thép, tránh gió lay, làm rách lá rụng mắt và không cho đè lên nhau, khoảng 10-12 tháng sau trồng, khi các cành cấp 2 đã hóa gỗ, màu nâu, mắt đã nổi rõ thì tiến hành để trái bằng cách cắt hết cành lá đã có, chỉ để lại cành quả, mầm dự trữ ở chân cành quả (cành quả vụ sau). Những cành to khỏe dài hơn 1m thì cắt ở vị trí mắt thứ 6,8, các cành nhỏ ngắn thì cắt ở mắt vị trí số 1 -2 để tạo các cành dinh dưỡng cho vụ sau. Sau khi cắt cành 20 ngày cây bắt đầu ra hoa, 25-30 ngày đậu trái. Mỗi dây chỉ để 2-3 chùm, trên các chùm cần loại bỏ các trái có dị tật, méo mó, sâu bệnh để tập trung dinh dưỡng nuôi các trái còn lại.Cắt hết cành lá đã có, chỉ để lại các bộ phận sau đây : – Cành quả để hình thành trái và gỗ mới. – Mầm dự trữ ở chân cành quả để thay thế các cành này vụ sau.

B- Bón Phân: 1. Bón lót: Trước khi trồng, bón cho mỗi hố 2 – 3 kg Better HG01 + 0,5 kg lân.

2. Bón phân cho nho thời kỳ kiến thiết cơ bản:– Cây nho cần khoảng 10 – 12 tháng để tạo bộ tán, leo giàn, trong thời kỳ loại phân thích hợp là Better NPK 16-12-8-11+TE.– Những tháng đầu sau khi trồng có thể pha 30 -50 gam phân với 10 lít nước tưới đều vào vùng rễ nho.– Các tháng sau có thể bón trực tiếp với lượng 50 – 70 kg/ha/lần, bón kết hợp xới đất phá váng và vùi lấp phân bón.

3 Bón phân cho nho kinh doanh:– Trung bình mỗi tấn nho, cây sẽ lấy đi khỏi đất 3,14 kg N, 0,71 kg P¬2O5, 5,86 kg K2O, 0,86 kg MgO, 4 kg CaO, 42 ppmFe, 15,7ppm Zn, 9,1 ppm Cu, 5,3 ppm B, 7ppm Mn… như vậy với năng suất bình quân 10 tấn/ha, cây nho lấy đi khỏi đất 31,4 N, 1 kgP2O5 , 58,6 K2O và nhiều trung vi lượng khác. Để nho đạt năng suất cao, ổn định, bón phân như sau:– Sau khi thu hoạch: xới đất phá váng, bón 6-10 tấn phân hữu cơ Better HG01 + 100-150 kg phân Better NPK 16-12-8-11+TE ( phân tím), kết hợp phun phân bón lá đầu trâu ĐT001 định kỳ 7-10 ngày/lần.– Trước cắt cành: bón 100 -150 kg Better NPK 16-12-8-11+TE (phân tím), phun 2-3 lần phân bón lá đầu trâu ĐT001.– Khi trái lớn bằng hạt tiêu: 100 -150 kg phân Better NPK 12-12-17-9+TE (phân xanh), kết hợp phun thêm phân bón lá đầu trâu ĐT 907 hoặc Better KNO3.– Khi trái lớn bằng hạt đậu: 150 -200 kg Better NPK 12-12-17-9+TE (phân xanh), kết hợp phun phân bón lá ĐT 907 hoặc Better KNO3, ngưng phun trước thu hoạch 10 ngày.Cần xới nhẹ đất giữa hai hàng nho hoặc cách gốc nho 0,5-1m để rải phân, sau rải phân cần lấp đất để vùi phân, tránh thất thoát.

IV- SÂU BỆNH HẠI:: – Nhện đỏ: bám ở mặt dưới lá hút lấy nhựa, đặc biệt lúc mới đâm chồi. Trị bằng các thuốc: Bi 58 ND, polytrin P 440EC, DC Tron Plus 98,8EC…– Bọ trĩ: trị bằng các loại thuốc Regent 800WG, Confidor 100SL…– Sâu ăn lá, sâu đục thân, đục quả: trị bằng các thuốc Sherpa 25ND, Decis 2,6ND…– Bệnh mốc sương: trên là bệnh xuất hiện ở mặt trên có những vết màu xanh-vàng, sau đó chuyển sang đỏ nâu, mặt dưới lá, tơ nấm phát triển thành một màng mỏng, trắng trắng những lông tơ. Bệnh còn gây hại cả tay leo, đọt, hoa và chùm 68WP, Antracol 70WP….– Bệnh phấn trắng: nắm bệnh gây hại các đọt non, bệnh phủ một lớp phấn trắng như bột lên lá non, cành thân non, trên cành lúc đầu bệnh cũng ở dạng phấn trắng nhưng sau đó chuyển sang nâu, các thuốc trị 53,8 DF, Champion 57,6DP, Kocide 250EC…

Hiếu Giang Better kính chúc bà con trúng mùa được giá!

Cập nhật thông tin chi tiết về Kỹ Thuật Trồng Và Bón Phân Cho Cây Mía trên website Duhocaustralia.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!