Bạn đang xem bài viết In Flexo Bao Pp Dệt được cập nhật mới nhất trên website Duhocaustralia.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Mã số
Giá sản phẩm
0
Điểm:
Thông tin thêm
IN FLEXO BAO PP DỆT, in flexo, san xuat bao bi, ban bao bi, cung cap bao bi, ban bao pp, pp det ghep mang opp, bao bi chuyen dung, IN FLEXO BAO PP DỆT, bao bi thuc pham, bao bi cong nghiep, bao duong, bao sua, bao pp, bao pp cac loai, bao pp det, bao gao, bao lua mach, IN FLEXO BAO PP DỆT, bao phan bon, bao dau nanh, bao cam gao, bao bot mi, bao thuc an cho heo, bao thuc an cho ga, bao thuc an cho vit, ngong, bao xi mang, bao dung cat, bao dung tro chau, bao dung bap, bao dung tieu, bao thuc an cho tom ca
Công ty chúng tôi chuyên sản xuất các loại bao PP dệt, bao dạng đơn, dạng manh cuộn, với nhiều chủng loại, kích thước đa dạng. Phù hợp với nhiều ngành nghề như phân bón, thức ăn gia súc, nông sản, phụ gia thực phẩm…
Nguyên liệu sản xuất bao Big bag, Jumbo là hạt nhựa PP dệt, vừa có tác dụng phải bao bọc các sản phẩm bên trong mặt khác PP dệt khi tráng PE có tính chất chống thấm rất cao, ngoài ra bao Big bag chụi tải được trong lượng cao trung bình chụi tải từ 200-2500 kg
– Bao Big big thông thường may ở dạng vuông và dạng tròn. – Đắy bao : ống xả hoặc đắy phẳng – Nắp bao: may ống nặp hoặc nắp chùm. Hiện nay bao Big bag sử dụng rất nhiều trong các ngành công nghiệp với trọng tải chịu lực cao : Ngành Xi măng, Hóa chất……Để có được thông tin chính xác khi làm việc với quý khách hàng, chúng tôi xin quý khách vui lòng gửi cho chúng tôi như sau: – Trường hợp 1: Gửi cho chúng tôi bao mẫu ( nếu quý khách có bao mẫu). – Trường hợp 2 : Gủi cho chúng tôi đầy đủ các thông tin sản phẩm cần đặt ( quy cách, kiểu dáng, chất liệu và đặc biệt là loại nguyên vật liệu của các sản phẩm bên trong cần bao bọc)
Chúng Tôi chuyên nhận thổi bao, và in logo len bao bi, gia công in nội dung vớ số lượng ít vói giá thành rẻ và thời gian nhanh nhất để phục vụ quý khách
BAO PP DỆT đủ loại kích thước 10kg, 20kg, 25kg, 50kg…TÚI IN PHỨC HỢP có nhiều loại chất liệu, độ dày và kiểu dáng (zipper, đáy tròn, hàn 4 biên, hàn 3 biên, xếp lưng, xếp lệch lưng…) với nhiều kích thước khác nhau
Quy trình làm bản Flexo, về cơ bản thật là đơn giản. Bạn có thể bắt đầu với một tấm vật liệu polymer rắn (hoặc lỏng) tác động chọn lọc bằng tia UV rồi bóc tách những phần tử không in ra khỏi bản. Hơn 30 năm trước bản Flexo được làm bằng tay và được khắc bằng những người thợ chế bản khéo léo
Nhưng ngày nay, công việc chế bản đã thay đổi rất nhiều, ngày càng khoa học, với chất lượng được nâng cao vượt bậc và mọi người thấy nó khá phức tạp. Bài viết này hy vọng sẽ giải thích những điểm chính về công nghệ Flexo và làm sáng tỏ một số điểm thường gây thắc mắc. Thuật ngữ về bản Flexo Để hiểu rõ quá trình làm bản, trước tiên ta cần hiểu cấu trúc của bản Flexo và một số thuật ngữ. Sau khi chế bản, khu vực nền trên đó phần tử in tạo chân được gọi là đế bản (floor) hay cũng chính là phần tử không in. Chiều cao từ đế bản cho tới bề mặt hình ảnh gọi là phần tử in nổi (relief). Mặt lưng của bản được tăng cường bằng một lớp phim nhằm tạo sự ổn định về kích thước bản khi in. Chiều dày bản phụ thuộc vào loại máy in và công dụng in của nó. Chiều dày bản thay đổi từ 0.045” (1.14 mm) tới 0.25” (6.35 mm). Độ dày trung bình của loại bản mỏng ở Bắc Mỹ là 0.067” (1.70 mm) được dùng cho nhãn mác, hộp giấy, bao bì mềm… Bản dày từ 0.125” (3.175 mm) tới 0.25” (6.35 mm) thường được dùng nhiều trong in bao bì carton dợn sóng và trên các loại bao dệt PP…
Quy trình chế tạo bản Có hai loại bản photopolymer cơ bản là: bản lỏng hoặc bản rắn, dùng để gia công hầu hết các bản Flexo. Bản photopolymer được cấu tạo gồm những phân tử monomer và phần tử kích hoạt bằng tia UV (photoinitiator). Do đó, sau khi được chiếu sáng bằng tia UV, các phần tử photoinitiator sẽ phản ứng hóa học và kết nối với các monomer sẽ tạo thành một khối hợp chất polymer. Với bất cứ loại bản nào: lỏng hay rắn, bản analog hay digital, đều theo cùng một quy trình phản ứng hóa học này trong quá trình gia công, tạo bản. Thông thường, bước đầu tiên là phơi phần đế của bản với tia UV, làm cứng chúng đồng đều để tạo phần nền (floor) đạt độ cao cần thiết. Phần mặt trước của bản sau đó được phơi tia UV một cách chọn lọc nhờ vào các loại bản che (phim âm bản trong công nghệ Analog hoặc lớp mask trong công nghệ Digital). Phần bị chiếu sáng sẽ bị polymer hóa tạo thành hình ảnh in nổi. Còn các phần tử bị che sẽ không bị polymer hóa và sẽ được tách ra trong quá trình hiện bản. Hình ảnh càng chi tiết thì qui trình phơi càng lâu. Phần tử không polymer hóa sẽ được bóc tách bằng nhiều phương pháp khác nhau cho tới mặt đế bản chỉ còn lại phần tử in nổi. Phương pháp phổ biến nhất là tách phần tử không in của bản rắn bằng các loại hóa chất rửa bản (dung môi truyền thống hoặc dung môi loại mới mùi nhẹ, hoặc là nước pha với các chất tẩy rửa). Một phương pháp khác là gia nhiệt: bao gồm việc làm nóng chảy các phần tử polymer rồi tách chúng ra bằng áp lực. Đối với bản polymer lỏng, các phần tử polymer lỏng không sử dụng được gom lại để tái chế, phần còn lại của bản được xử lý để hoàn thiện trước khi in. Trong trường hợp hiện rửa bằng dung môi: sau khi phần tử không in được bóc tách, dung môi này thường bị hấp thụ vào tấm bản làm bản phồng lên. Do đó, bản polymer phải qua công đọan sấy bản để dung môi được bốc hơi hết để bản phục hồi lại kích thước ban đầu trước khi qua giai đoạn kế tiếp. Việc này thực hiện bởi những bộ gia nhiệt và quạt thổi khí nóng vào bản. Tiếp đến là công đoạn chiếu sáng hoàn tất bản: Do phần giữa tấm polymer vẫn còn sót lại những phần tử chưa polymer hóa, còn dính nên độ bền bản không cao, chất lượng chưa tốt. Để khắc phục vấn đề này, bản được chiếu sáng lần nữa bằng đèn UVA và UVC để hoàn thành quá trình polymer hóa cũng như làm khô hoàn toàn mặt bản. • Vật liệu bản polymer, độ dày bản, độ cứng bản, mặt nạ mask, công nghệ ghi bản. • Hệ thống xử lý bản, dung dịch xử lý bản và những công đoạn khác nhau của việc hoàn thiện bản. Nó cũng tùy thuộc vào sản phẩm in Flexo như là: nhãn in cuộn khổ hẹp (narrow web), bìa carton, bao thư, bao bì mềm, bao nylon nhiều lớp hay bao bì carton dơn sóng v.v… Phương pháp tạo bản Phương pháp tạo bản thông dụng nhất hiện nay trong in Flexo là analog và digital Laser Ablative Mask System (LAMS). Đối với hệ thống analog, phim matt (phim có mặt nhám chuyên dùng cho bản flexo) được ghi riêng trước khi đặt lên trên tấm bản analog, sau đó tất cả được phủ lên một tấm phim để hút chân không. Sau khi hút chân không, bản Flexo được phơi bằng tia UV. Hạt tram và đường nét trên bản thường to hơn so với tram và đường nét trên phim vì sự tán xạ và phản xạ của ánh sáng sau khi xuyên qua nhiều lớp như: lớp phủ, tấm phim đã ghi và tấm che ngăn không cho phim dính vào bản. Bản analog cũng có cấu trúc hạt tram bằng đầu (flat top) với độ bền hạt tương đối tốt. Công nghệ digital LAMS không dùng phim, thay vào đó một lớp mặt nạ màu đen được áp chặt lên mặt bản. Lớp mặt nạ đen được đốt bằng tia laser công suất cao, sau đó phần tử bị đốt được hút sạch để lộ ra phần tử in, phần mặt nạ còn lại sẽ che phủ phần tử không in. Bản sau đó được phơi với quy trình phơi thông thường, nhưng không có hút chân không, tức là nó được phơi với sự hiện diện của không khí. Phần tử oxy trong không khí tác động lên các phân tử kích hoạt polymer, làm chậm quá trình polymer hóa, điều này khiến hạt tram bị co lại và thay vì bằng đầu, hạt tram có hình đầu tròn như viên đạn (Hình 2) Công nghệ thế hệ thứ 3 được phát minh từ năm 2008là công nghệ làm bản Laminate. Với công nghệ này, một lớp phim nhạy nhiệt chất lượng cao Thermal Imaging Layer (TIL), được ghi bằng máy ghi bản công suất thấp, tương tự loại dùng trong chế bản Offset. Lớp TIL này sau đó được ép chân không lên mặt bản digital Flexo chuyên dùng. Nhờ vậy mặt thuốc của TIL hoàn toàn tiếp xúc với bản polymer, còn đế phim sử dụng như một rào chắn ngăn oxy tác động. Cả bản và lớp TIL được phơi trong không khí, nhưng không có tác dụng của oxy. Tiếp xúc hoàn hảo giữa bản với mặt thuốc tạo kết quả chuyển tiếp hình ảnh 1: 1 từ file sang bản. Lớp TIL sau đó được bóc khỏi trước khi hiện bản và xử lý như qui trình bình thường. Cấu trúc của hạt tram có chóp bằng đầu tạo sự bền bản khi in như bản analog nhưng độ phân giải cao hơn rất nhiều, tới 300 lpi và tầng thứ đầy đủ từ 0 – 100%. Phương pháp làm bản thứ 4 là khắc trực tiếp Direct Laser Engraving (DLE): ở phần tử không in được đốt bởi đầu laser có công suất cực cao, nhằm tạo phần hình ảnh nổi. Đây là quá trình làm bản thuần túy digital, không dựa vào phản ứng hóa học nhờ tia UV. Nó được sử dụng phổ biến cho việc in hình ảnh liên tục và chế bản hình ống (sleeve). Tốc độ ghi và giá thành của hệ thống laser khá đắt là hạn chế của công nghệ đang phát triển này. Công nghệ ghi bản Laser: Có nhiều công nghệ ghi laser được áp dụng cho bản digital Flexo.
Công nghệ dùng bản digital LAMS: Hai loại phổ biến hiện nay áp dụng cho bản đều dùng đầu laser năng lượng cao để đốt lớp mặt nạ đen. • Phương pháp phổ biến nhất là chùm tia laser đơn Gaussian. Chùm tia này đốt bản với năng lượng cao nhưng có profile dạng hạt mềm (soft dot). Nguyên do là cấu trúc của laser này có năng lượng cao ở trung tâm chùm tia, suy giảm mạnh ở vùng rìa tạo ra dạng năng lượng hình chuông. • Phương pháp thứ hai là chùm laser nhiều tia gồm những tia năng lượng thấp kết hợp lại tạo ra mức năng lượng cần thiết. Nhưng phương pháp này cũng tạo ra nguồn năng lượng cao ở trung tâm, bị giảm mạnh ở vùng gần bìa chùm tia, kết quả là hạt tram không sắc nét. Công nghệ digital LAMS kết hợp với việc tác động của oxy hóa làm hạt tram co lại trong quá trình phơi UV. Điều này thực tế làm cho kết quả cuối cùng của tấm bản kém ổn định và khó kiểm soát. Công nghệ sử dụng ép bản chân không Laminate: Với công nghệ tram vuông SquareSpot năng lượng thấp được sử dụng để ghi phim nhiệt TIL trước khi ép chân không lên bản Flexo digital. Mỗi hạt 10,6 micron là một ma trận của 4×4 laser tạo cấu trúc tram hard dot với rìa cạnh sắc nét cũng như chuyển hình ảnh 1: 1 từ digital tới bề mặt bản. Đây chính là phần ưu việt của công nghệ này. Vì so với file digital tạo bởi những ảnh điểm vuông, việc dùng laser dạng tròn luôn luôn cho kết quả có sai số. Điều này xảy ra khi các ảnh điểm laser tròn chồng lên nhau làm thay đổi diện tích hạt. Phơi bản UV Bước quan trọng đối với mọi công nghệ chế bản Flexo là phơi bản bằng tia UV nhằm tạo phản ứng polymer hóa cho phần tử in. Đây là phần quan trọng nhất đối với chất lượng sau cùng của bản. Công đoạn này thay đổi rất ít trong suốt 20 năm qua với cải tiến nhiều hơn là những bước đột phá. Chìa khóa của quá trình này là sự ổn định và chính xác lặp lại. Sự thay đổi bên ngoài như nhiệt độ, độ ẩm có thể ảnh hưởng đến quá trình phơi và kết quả. Những bộ phận đơn giản như mặt phẳng được làm mát của bàn phơi, lượng gió giải nhiệt đầy đủ để thổi hơi nóng thoát ra từ mặt bản cũng có thể hỗ trợ lớn cho việc tăng sự ổn định cho bản. Một yếu tố ảnh hưởng nữa là việc bong đèn tuýp UV sẽ suy giảm năng lượng phát sáng sau thời gian sử dụng. Vì vậy, bộ phận điều chỉnh ánh sáng bao gồm cảm biến đo lượng sáng phát ra để tự động điều chỉnh thời gian phơi sẽ đảm bảo năng lượng phơi luôn ổn định. Đây cũng là một yếu tố quan trọng trong việc phơi bản Flexo. Quá trình hiện và xử lý bản Đối với tất cả qui trình làm bản Flexo (trừ khắc bản trực tiếp DLE: Direct Laser Engraving), quá trình hiện bản là quá trình xử lý hóa chất. Những phần tử không polymer hóa được bóc tách sau đó hòa tan (phương pháp dung môi hữu cơ) hoặc nung chảy và bóc tách (phương pháp gia nhiệt thermal). Phương pháp phổ biến nhất là dùng hóa chất rửa bản, hoặc là hỗn hợp nước và chất tẩy rửa. Trong cả hai trường hợp, hóa chất hấp thu phần tử photopolymer có thể tái sinh rồi tách ra phần polymer không cần thiết, trước khi xử lý thải. Dung dịch dùng ngày nay được coi là không có phần tử độc hại, mùi nhẹ và thân thiện với người vận hành. Nó được tái tạo bằng công nghệ chưng cất truyền thống hoặc tái sinh với một gallont (3.79 lít) của dung môi tái tạo với tỷ lệ 90%, có thể dùng để tạo nên gần 40 feet vuông (3.72 m2) của bản photopolymer loại 0.067”. Quy trình tạo bản nhiệt cũng là một phương pháp phổ biến khác, thay vì hòa tan phần bản polymer không cần thiết, phần tử này được nung nóng nhiều lần làm chảy nó, với thiết bị làm chảy polymer bằng lô hiện bản dưới áp lực. Thường là bản Flexo phải qua 8-12 vòng trong chu trình này để đạt được độ sâu cần thiết cho mặt bản. Việc làm chảy vật liệu bản không cần thiết cũng sẽ sản sinh ra khí thải phải được hút ra khỏi khu vực sản xuất. Cuộn lô hiện bản là vật liệu dùng một lần và phải lớn hơn khổ bản. Thông thường để tạo 40 feet vuông của bản (tương đương sử dụng một gallon dung môi), 440-480 feet vuông của cuộn lô hiện bản được dùng và phải trả lại cho nhà máy chế tạo để thải theo đúng qui định an toàn hoặc tái sinh lại. Việc chọn qui trình xử lý bằng dung môi hoặc qui trình xử lý bằng nhiệt được quyết định dựa trên yêu cầu kỹ thuật. Ta phải xem xét những lợi điểm và khuyết điểm của từng công nghệ. Ví dụ như tráng rửa bằng dung môi cho phép tạo bản với tiêu chuẩn cao nhất. Mặt khác chọn công nghệ gia nhiệt thuận tiện và nhanh hơn. Yếu tố cần xem xét nữa là dung môi sử dụng và quy trình tái sinh đang được các nhà sản xuất cải tiến liên tục nhằm tăng năng suất và thuận lợi hơn khi gia công bản.
Hãy gọi đến chúng tôi để được bảng giá tốt nhất.
Hotline: 028.2212 2296 – 028.2212 2297 – 028.6684 2297
Mọi thông tin chi tiết xin vui lòng liên hệ : CTY TNHH SX IN ẤN BAO BÌ ĐÌNH TOÀN 75 Cống Lở, F.15, Q.Tân Bình [T] 028.22122297 [E] baobi@indinhtoan.com Y!M: dinhtoanprinting Skype: congtybaobidinhtoan
Chúng tôi giao tận địa chỉ Khách Hàng. Cam kết nhận lại sản phẩm và chịu mọi chi phí nếu sản phẩm không đúng quy cách trong Báo Giá. Hân hạnh phục vụ Quý Khách.
Kỹ Thuật Trồng Gừng Trong Bao
Trồng gừng trong bao: Cây gừng (Zingiber officinale) được dùng tươi như một loại gia vị và chế biến thành nhiều sản phẩm như mứt, kẹo, rượu, thuốc… Ở nước ta, gừng được trồng phổ biến trong các hộ gia đình với qui mô nhỏ, sản lượng chưa nhiều,chủ yếu để tiêu thụ tại chỗ hoặc thị trường nội địa.
Ở miền Nam, vụ trồng gừng chính là đầu mùa mưa (tháng 4 – 5 hàng năm).
1. Chuẩn bị giống
Chọn giống: các giống được trồng nhiều hiện nay là gừng Trâu hay gừng Dé (giống địa phương), gừng Lai (Tiền Giang), gừng Tàu (nhập nội) và đặc biệt là giống gừng Nồi (trồng nhiều ở Long An), …
Chuẩn bị giống: Chọn củ gừng già (đủ 9 tháng tuổi trở lên), sạch bệnh bẻ hoặc cắt đoạn củ (ánh) dài 2,5 – 5 cm, trên mỗi ánh phải có ít nhất 1 mắt mầm. Giống cần được xử lí với các loại thuốc gốc đồng, Score, Phatox, Validacine… để phòng và diệt nấm bệnh. 1 kg gừng giống có thể cho 15 – 20 hom giống và 1 ha cần chuẩn bị 3.000 kg.
2. Chuẩn bị đất
Đất trồng cần dọn sạch, cày sâu ít nhất 20 cm và bừa thật tơi xốp; sau đó tiến hành bón lót phân,chế phẩm BIMA có chứa nấm đối kháng Trichoderma, phân hữu cơ vi sinh, 1-1,5 tấn vôi, lên liếp cao 10 – 20 cm, mặt liếp rộng 40 – 50 cm, đào rãnh thoát nước.
Đối với phương pháp trồng trong bao thì công đoạn chuẩn bị đất cũng được tiến hành tương tự nhưng đất sẽ được cho vào bao với lượng thích hợp.
3. Mật độ và kỹ thuật trồng
Cây cách cây 30 cm, hàng cách hàng 40 – 50 cm và đặt giống sâu 5 – 7 cm, lấy đất mịn phủ lên rồi ấn chặt tay. Đối với phương pháp trồng trong bao thì trồng với mật độ thưa hơn.
4. Chăm sóc
Nếu trồng bằng ánh chưa nảy mầm thì sau 15 – 20 ngày củ sẽ bắt đầu đâm chồi và xuất hiện lá non.
– Tưới nước: Cần cung cấp đủ nước và nên tưới thường xuyên 2 lần/ngày. Tuy nhiên, trong quá trình trị bệnh ở một số thời điểm nhất định thì việc cắt giảm nước tưới để hạn chế sự lây lan của dịch hại là cần thiết.
– Làm cỏ, vun gốc: Tiến hành phun trừ hoặc làm cỏ dại bằng tay vào giai đoạn 25 – 30 ngày sau khi trồng, kết hợp với bón thúc đợt 1 cho cây. Trong các tháng sau, khi thấy cỏ dại thì phải làm sạch,không để củ gừng lộ khỏi mặt đất nhằm đảm bảo phẩm chất và giá trị thương phẩm.
5. Phân bón
Phân bón sử dụng cho một hecta trồng gừng cần 20 tấn tro trấu mục, rơm mục, xác lá cây mục ủ với chế phẩm BIMA có chứa nấm đối kháng Trichoderma; 1- 1,5 tấn vôi bột; 110N – 30 P2O5 – 100K2O được chia làm 5 lần bón, như sau:
– Bón lót: toàn bộ vôi và 1/5 lượng phân;
– Bón thúc: chia làm 4 đợt, mỗi đợt 1/5 lượng phân
+ Đợt 1 vào 30 ngày sau khi trồng; + Bón đợt 2 vào 60 ngày sau khi trồng; + Bón đợt 3 vào 90 ngày sau khi trồng; + Bón đợt 4 vào 120 ngày sau khi trồng.
Chú ý: ngoài các thời điểm bón phân trên, gừng bị vàng do thiếu đạm thì có thể tiến hành phun phân bón lá; có thể kết hợp với Ridomyl, Basudin 10H khi cần.
6. Phòng trừ sâu bệnh
6.1. Sâu hại: Sâu đục thân thường xuất hiện vào đầu mùa mưa. Phòng trị: Sử dụng các loại thuốc trừ sâu có tính lưu dẫn như: Basudin, Regent, Furadan…
6.2. Bệnh hại
– Bệnh cháy lá: Bệnh do nấm Fusarium gây nên thường vết bệnh xuất hiện trên chóp lá và cháy từ chóp lá xuống. Nếu bệnh phát triển mạnh, nấm tấn công vào nách lá, xuống củ làm chết cả cây. Phòng trị: Sử dụng các loại thuốc Appencard, Bavistin, Carbenzim, Score..
– Bệnh thối củ
Thối xanh
Bệnh do vi khuẩn lưu tồn trong đất, nước hoặc côn trùng gây ra. Gừng đang xanh bỗng héo đột ngột vào giữa trưa, có tươi lại vào lúc chiều mát và chết rất nhanh; thân bị nhũn nước, tách rời củ và có màu sậm; khi nhổ lên, đỉnh sinh trưởng có nước màu đục và có mùi hôi đặc trưng
Phòng trừ: do đặc điểm bệnh rất khó trị, lây lan nhanh nên và gây tổn thất lớn nên phòng bệnh là vấn đề cần thiết và bắt buộc.
Khi thấy gừng có triệu chứng xoắn lá thì tiến hành phun các loại thuốc Kasuran, Kasumin, Starner,..kết hợp với một số thuốc đặc trị các loại rầy mềm, rệp sáp tấn công như Diazan, Supracide… Luân cây trồng hợp lý để cắt nguồn bệnh lưu tồn tấn công vào củ, xuất hiện trong điều kiện ẩm ướt kéo dài.
Thối vàng
Bệnh do nấm Fusarium gây vàng lá, sau đó rụng và chết tương đối chậm, trên củ có vết màu nâu, phần củ nhăn nheo và tóp lại có phủ lớp tơ màu trắng.
Phòng trị: xử lí đất và giống trước khi trồng, sử dụng các loại thuốc Appencard, Carban, Carbenzim, Ridomyl, Score…
7. Thu hoạch và tồn trữ
Có thể thu hoạch gừng từ 4 tháng trồng trở đi. Gừng để làm giống thì phải thu hoạch sau 9 tháng.
Gừng cần được bảo quản nơi khô ráo, thoáng mát. Gừng giống được đặt vào thùng, chậu hoặc trải đều trên sàn nhà, ở dưới và trên mỗi lớp củ được phủ bằng một lớp đất mịn, khô, dày 1 – 2 cm.
Trồng Dưa Chuột Bao Tử
Trồng dưa chuột bao tử
Dưa chuột bao tử dùng để dầm dấm hoặc muối mặn để xuất khẩu mang lại hiệu quả kinh tế khá cao cho bà con nông dân. Để việc trồng dưa bao tử đạt năng suất cao, bà con chú ý một số điểm sau :
Giống:
Thường các giống dưa để trồng dưa bao tử là các giống dưa F1 của Nhật, Mỹ, Thái Lan, Hà Lan (Ninja 179, Marinda, Happy 02, Mummy 331 …) có đặc điểm sinh trưởng khỏe, năng suất cao, nhiều hoa cái (khoảng hơn 95% số hoa), qủa lớn nhanh, mỗi chùm 2 – 3 quả. 1 sào Bắc Bộ (360m2) giao hết 30 – 35 gam hạt.
Thời gian trồng:
Có thể gieo từ 15/9 đến 10/10. Nhưng tốt nhất là từ 15/9 đến 25/9. Nếu trồng cây dưa trên đất 2 vụ lúa sẽ cho năng suất cao và ổn định hơn.
Cách trồng:
+ Chọn đất cát pha hoặc đất thịt nhẹ ; nơi chủ động tưới tiêu. Phải làm kỹ.
+ Bên luống rộng khoảng 1,1m – 1,2m cao khoảng 30cm. Hạt gieo thành 2 hàng trên luống cách nhau 60cm, gốc nọ cách gốc kia 40cm. Các gốc trên 2 hàng nên bố trí so le nhau để tận dụng tốt ánh sáng mặt trời.
Phân bón:
Một sào Bắc Bộ (360m2) cần phân chuồng ủ mục 7 – 8 tạ, đạm Urê 5 – 6kg, Kali Sunfat 7 – 8kg, Lân 12 – 15kg. Nếu đất chua thêm 20 – 25kg vôi bột.
Cách làm: vôi bột rắc đều trước khi cày bừa. Bón lót toàn bộ phân chuồng, phân lân, 50% đạm và Kali, bón ở giữa 2 gốc cách hạt dưa từ 10 đến 15 cm; gieo xong phủ một lớp rơm rạ băm nhỏ hoặc trấu lên bề mặt luống.
Chăm sóc:
– Khi cây có 4 – 5 lá, lúc dưa mọc tua cuốn thì xới vun kết hợp bón thúc. 25% đạm và kali. Bón thúc cách gốc khoảng 25cm.
– Cắm giàn cho dưa leo, mỗi gốc cần từ 1 – 2 cây cắm xéo (hình chữ x, còn gọi là chéo cánh sẻ). Khi cắm giàn cần phải cột chắc, sau đó dùng dây mềm cột ngọn dưa đưa lên giàn – cứ 3 – 5 ngày cột một lần cho đến khi cây ngừng sinh trưởng (khi đã thu 3 – 4 lức quả). Khi dưa được 10 – 12 lá bón lót hết lượng phân đạm, kali còn lại. Tỉa bỏ lá già, lá bệnh, làm sạch cỏ dại để gốc dưa luôn luôn thoáng. Hàng ngày, dùng nước sạch để tưới. Sau mỗi đợt hái qủa nên tưới cho dưa bằng nước phân chuồng đã ủ hoại mục.
– Dùng các loại thuốc nam như hạt củ đậu, lá thuốc lào, thuốc lá hoặc vi sinh như BT, Delfin, Dipen để trừ sâu xanh, sâu khoang cắn lá, sâu đục qủa. Dùng thuốc Actara để trừ các loại rầy rệp. Trừ nhện đỏ, nhện trắng bằng Daniton, Pegasus, Dany. Nếu dưa bị lở cổ rễ, phấn trắng, chạy dây, héo xanh thì dùng Tilt, Tilt – Super, Canvin. Chú ý xem kỹ cách sử dụng từng loại thuốc đã ghi trên bao bì gói thuốc.
Thu hoạch:
Thường thì hái vào lúc quả dài 3 – 4cm, đường kính 2 – 2,5cm, khoảng 2 ngày 2 một lần. Nên chế biến ngay trong ngày để dưa tươi ngon.
TTKHCN – Web DN, 19/4/2007
vietlinh.vn
Dưa bao tử – Cây “xóa đói giảm nghèo” ở Đại Nại
Anh Trương Văn Miên – Phó trưởng thôn Đại Nại xã Ngô Quyền (Tiên Lữ – Hưng Yên) cho biết: Thôn có 370 hộ với gần 100 ha đất canh tác. Trước đây, cây trồng trong vụ đông chủ yếu là ngô thu nhập không cao. Do vậy, vụ đông năm 1997, khi anh Trần Văn Minh – một người dân trong thôn mạnh dạn đứng ra làm “trung gian” thu mua dưa quả cho Cty xuất nhập khẩu tỉnh, đã có hơn 20 hộ đưa cây dưa bao tử vào trồng trên đất 2 vụ lúa với tổng diện tích gần 1,5 ha. Ngay vụ đầu, người trồng dưa đã thắng lớn. Trừ tiền đầu tư, mỗi sào dưa bao tử còn lãi khoảng 1 triệu đồng. Từ đó đến nay đã 6 năm, vụ đông nào thôn Đại Nại cũng có hàng chục hộ trồng dưa bao tử với tổng diện tích từ 4 – 8 ha. Mỗi năm, chỉ tính riêng từ cây dưa bao tử, thôn Đại Nại đã thu lãi hàng trăm triệu đồng. Nhiều gia đình trong thôn đã thoát nghèo nhờ giống dưa này.
Theo chỉ dẫn của anh Miên, tôi ra cánh đồng úng tìm gặp anh Phạm Văn Chiểu. Anh Chiểu không chỉ là người có “thâm niên” trồng dưa chuột bao tử mà còn là một trong những hộ thường trồng nhiều nhất thôn. Bên ruộng dưa chi chít quả, anh tâm sự: “Gia đình tôi chính là một gia đình thoát nghèo từ cây dưa chuột bao tử. Nếu không có cây dưa, tôi chưa biết sẽ xoay xỏa ra sao khi gia đình có tới 5 khẩu mà chỉ có hơn 7 sào ruộng”. Hằng năm, anh đều trồng 2 vụ dưa: Vụ xuân trồng 2 sào, vụ đông trồng 3,5 sào. Tổng cộng 2 vụ dưa mỗi năm gia đình anh thu lãi từ 6 triệu đồng đến 7 triệu đồng.
Theo một số người đã nhiều năm trồng dưa bao tử ở Đại Nại thì trồng loại cây này không khó. Vụ xuân cần chọn ruộng chân cao, vụ đông trồng ở những ruộng tiện tưới tiêu nước. Luống dưa cao từ 25-30 cm, bề mặt luống rộng từ 0,8 – 1m, các luống cách nhau khoảng 60 cm. Mỗi sào trồng từ 800-900 cây. Sau 30-35 ngày kể từ khi tra hạt vào bầu, dưa cho thu hoạch. Mỗi vụ dưa kéo dài từ 90 – 100 ngày. Tiền đầu tư cho mỗi sào từ 500.000 – 700.000 đồng bao gồm tiền giống, phân bón, thuốc trừ sâu, tre hoặc nứa bắc giàn. Tuy nhiên, trồng dưa chuột bao tử đòi hỏi nhiều công lao động. Người trồng phải luôn giữ đủ nước ở rãnh luống. Cây leo đến đâu buộc ngọn và nhánh vào giàn đến đấy. Ngoài ra còn phải thường xuyên phun thuốc phòng trừ bệnh gây ra đốm vàng lá, cắt tỉa lá héo v.v… Bận nhất là trong thời kỳ thu hoạch. Mỗi ngày, các hộ phải hái quả 2 lần (sáng và chiều) bởi dưa bao tử lớn rất nhanh, nếu không hái kịp thời, quả dưa to không bán được. Do trồng theo hợp đồng cam kết nên các hộ được cung ứng giống, biết giá cả của dưa ngay từ đầu vụ lại không lo đầu ra của sản phẩm. Vì vậy các hộ đều yên tâm sản xuất. Trung bình mỗi sào dưa đạt từ 5,5 – 6 tạ quả. Một số gia đình như hộ anh Trương Văn Bào, Trương Văn Dũng, Trần Văn Giảng… có vụ năng suất đạt từ 7,5 – 8 tạ quả/sào. Vụ đông năm nay thôn có 56 hộ trồng dưa bao tử với tổng diện tích 4 ha, giá 1 kg quả ổn định là 2.600 đồng. Đến ngày 15/11, mỗi sào dưa ở thôn Đại Nại đã cho thu trên dưới 3 tạ quả. Nhiều người đánh giá vụ này thôn lại được mùa dưa chuột bao tử
vietlinh.vn
Trồng dưa bao tử ở Đông Bình
Từ kết quả SX vụ đông năm 2002, một sào dưa XK cho năng suất 1,6 tấn, bán với giá 660.000 đồng/tấn, trừ các khoản chi phí (giống, phân bón, tre dóc, thuốc BVTV) có lãi hơn 550.000 đồng, gấp 2 lần so với cấy lúa. Tính chung toàn HTX trồng 6 mẫu dưa cho sản lượng 96 tấn, với tổng giá trị hơn 63 triệu đồng.
Như được khích lệ, vụ đông năm 2003, HTX Đông Bình huyện Gia Bình (Bắc Ninh) tiếp tục ký hợp đồng trồng dưa xuất khẩu với Cty Mĩ Thái (trụ sở tại Hải Dương) trên diện tích 8 mẫu với gần 70 hộ tham gia SX. Có điều năm nay toàn bộ diện tích được chuyển sang trồng dưa bao tử xuất khẩu thay cho trồng dưa thịt như năm ngoái. Về phía Cty chịu trách nhiệm cung ứng giống, tập huấn kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm, xã viên là người thực hiện, bán sản phẩm cho Cty theo đúng kích cỡ. Dẫn tôi thăm cánh đồng dưa đang kỳ thu hoạch, ông chủ nhiệm HTX tâm sự: “Đây là vụ đầu tiên trồng dưa bao tử, do vậy địa phương thường xuyên tuyên truyền để mọi người làm đúng kỹ thuật, nhất là việc thu hái, nếu không sẽ bị hạ loại vì nhỡ cỡ, giá thành rẻ”. Nhiều hộ tham gia trồng dưa cho biết: Dưa bao từ dễ trồng, dễ chăm, nhanh cho thu hoạch, chi phí vật tư (phân bón, thuốc BVTV) cũng như việc mang vác nặng giảm đáng kể. Trong khi đó giá trị thu nhập có thể tăng gấp 1,3 so với trồng dưa thịt, hiện nay toàn HTX đã thu hoạch được 35 tấn, ít như chị Ngũ trồng 1 sào 3 thước cũng được 4 tạ, nhiều là các chị Kiều, Mừng trồng 1 sào 4 thước cũng thu hái được 6,5 – 7,2 tạ theo các chị, thời gian thu hoạch dưa còn kéo dài khoảng 20-25 ngày nữa. Muốn ruộng dưa có năng suất cao phải tuân thủ đúng theo lịch thời vụ, cách thức làm bầu, ngâm ủ hạt cũng như kỹ thuật trồng, chăm sóc, BVTV … Dưa sau trồng gần 1 tháng sẽ cho thu hoạch. Theo dự kiến, 1 sào dưa cho năng suất bình quân 550 – 600 kg, bán với giá 2.400 đ/kg và như vậy với 8 mẫu dưa đông, HTX có nguồn thu không nhỏ. Mở ra hướng đi mới đó là trồng dưa bao tử xuất khẩu ở huyện Gia Bình
NNVN, 25/12/2003
vietlinh.vn
Trồng dưa chuột bao tử
Khó có thể nói hết được niềm vui của xã viên HTX Đông Bình huyện Gia Bình (Bắc Ninh) khi thu hoạch xong vụ dưa đông vừa qua, cũng bởi từ dưa đông, cuộc sống xã viên ở địa bàn thuần nông này có phần được cải thiện. Để “minh chứng” điều này, ông Loan kiểm soát HTX cho biết: Với tổng số 7 mẫu dưa đông cho thu hoạch 41 tấn loại 1; 8,4 tấn loại 2, đạt doanh số 113 triệu đồng. Vụ xuân 2004, HTX tiếp tục liên kết với Công ty Mĩ Thái mở rộng diện tích trồng dưa bao tử lên 8 mẫu (tăng 1 mẫu so với vụ trước) nếu điều kiện thời tiết thuận lợi, dưa được mùa, là cây không thể thiếu khi xây dựng cánh đồng đạt giá trị 50 triệu của HTX.
Tuy nhiên, muốn có thu nhập cao ngoài tác động của yếu tố thời tiết cần lưu ý mấy biện pháp kỹ thuật sau:
– Xử lý giống, làm bầu:
Theo anh Hùng và nhiều xã viên thì hạt giống để có độ nảy mầm cao, khi lấy về ngâm trong nước ấm khoảng 2 – 3 giờ sau đó vớt ra ủ vào giẻ ẩm, kiểm tra hạt nứt nanh thì tra vào bầu, đất làm bầu dưa tốt nhất là đất màu trộn với phân chuồng ủ mục. Khi cây có 2 lá thật mang ra ruộng trồng.
– Làm đất:
Nên trồng dưa trên chân ruộng chủ động nước, cày bừa kỹ, thu nhặt tàn dư của cây trồng vụ trước để hạn chế sâu bệnh hại về sau này, luống trồng dưa thông thường rộng từ 1- 1,2m, cao 25-30cm.
– Kỹ thuật trồng:
Mỗi luống trồng làm 2 hàng dọc, cây cách cây chừng 45cm, bổ hốc, dùng dao rạch túi bóng (nếu làm bầu bằng túi nilon), 1 sào trồng hết khoảng 950-1000 cây là vừa (mỗi hốc trồng 1 cây). Để có đủ dinh dưỡng, nhiều xã viên thừa nhận, mức đầu tư (tính cho 1 sào Bắc bộ): 350 – 450kg phân chuồng, 7 – 8kg đạm urê, 9 – 10 kg kali, 25 – 30kg lân. Bón lót 100% phân chuồng, lân và 20 – 30% lượng đạm, kali, số phân còn lại dùng để tưới thúc dần. Anh Hùng cho biết thêm, phân chuồng có thể bón thúc bổ sung vào giữa hàng để rễ ăn lan rộng, nhiều xã viên khác thì tưới nước phân chuồng hòa loãng cho cây cũng mang lại hiệu quả cao.
– Chăm sóc:
Thường xuyên giữ ẩm nếu có điều kiện thì để nước trong 1/3 rãnh là tốt nhất, kết hợp xới xáo làm cỏ… Khi phát hiện dưa có tay leo thì cắm giàn theo kiểu chữ A, giằng néo làm nhiều tầng, dùng dây mềm buộc ngọn cây vào giàn vì lúc này tay leo còn yếu.
– Phòng trừ sâu bệnh:
Công tác BVTV rất quan trọng quyết định năng suất, vì vậy cần tham khảo cán bộ kỹ thuật trên địa bàn hoặc đơn vị cung ứng nhằm phát hiện đúng, phòng trừ đúng, tiết kiệm chi phí thuốc BVTV đến mức cao nhất.
Với cách làm trên, vụ đông vừa qua, năng suất dưa bao tử ở Đông Bình đạt bình quân 700kg/sào (dự kiến đạt 550 – 600kg), vụ xuân 2004 năng suất có thể đạt cao hơn và như vậy 79 hộ trồng dưa sẽ có thu nhập đáng kể.
NNVN, 27/4/2004
Nhấn vào đây để xem tất cả các thông tin kỹ thuật trồng dưa chuột
Khám Phá 4 Địa Chỉ Mua Hoa Lan Tại Đà Nẵng Bao Đẹp Bao Rẻ
Bạn là một người yêu thích hoa lan Đà Nẵng, bạn đang tìm kiếm những địa chỉ cung cấp hoa lan chất lượng và giá tốt để giành tặng cho gia đình, tặng đồng nghiệp hay công ty? Tuy nhiên bạn có biết hoa lan có rất nhiều chủng loại và ý nghĩa của từng loại hoa cũng khác nhau.
Để hoa lan trở thành một món quà đắt giá và ý nghĩa xứng tầm, thì bạn cần phải tìm hiểu thật kĩ về điều đó cũng như những địa chỉ mua hoa tốt để đảm bảo chất lượng của hoa thực sự đáng giá. Hôm nay chúng tôi sẽ cùng bạn đi khám phá nha.
1. Hoa Sen Việt – Hoa Phong Lan Đà Nẵng
Địa chỉ: Số 324-326-328-330-332 Đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, Đà Nẵng
Email: hoasenvietdn@gmail.com
Web: chúng tôi
Điện Thoại: 0905 593 968 Mr Thanh
✤ Là một cơ sở cung cấp hoa phong lan Đà Nẵng lớn và tiếng tăm nhất nhì thành phố, Hoa Sen Việt có chuyên môn cao về những loại phong lan quý hiếm được ưa chuộng.
✤ Các loại lan ở đây đều được trồng bằng những phương pháp đặc biệt, sử dụng hệ thống tưới tiêu và công nghệ chăm sóc tân tiến bậc nhất, hạn chế tối đa các chứng bệnh thường thấy ở lan như đốm lá đỏ.
Hoa lan Đà Nẵng
✤ Không chỉ chuyên cung cấp các gốc lan quý, giống hoa đẹp, Hoa Sen Việt còn cung cấp các loại hoa thiết kế cắm sẵn hoặc trồng bình dành cho các sự kiện như hoa khai trương, hoa trưng tết.. với giá cả phải chăng.
✤ Mua hoa ở đây, các bạn sẽ được tư vấn rất kĩ càng về các kĩ thuật chăm sóc hoa đồng thời được biết thêm nhiều mẹo nhỏ dành cho hoa mà chỉ người làm vườn mới biết.
2. Lan Hồ Điệp Đà Nẵng – Shop Hoa Lan Đà Nẵng
Địa chỉ: 841 Ngô Quyền, Tp Đà Nẵng
Fanpage: Lan hồ điệp Đà Nẵng , Cửa hàng lan hồ điệp Đà Nẵng
Điện thoại: 091 455 52 22
✤ Một trong những shop hoa lan Đà Nẵng lâu đời, là đối tác của rất nhiều công ty doanh nghiệp lớn trên địa bàn thành phố phải kể đến Lan Hồ Điệp Đà Nẵng. Xuất phát là một “dân chơi lan” nhiêu năm thực thụ, chủ đơn vị này có một niềm say mê nghiêm túc đối với các loại lan, đặc biệt là lan hồ điệp.
Shop hoa lan Đà Nẵng
✤ Trong các loại lan mà nói thì để làm quà thích hợp nhất vẫn là lan hồ điệp, từ thế hoa, dáng hoa, cánh hoa tới các màu sắc đều toát lên một vẻ sang trọng tinh tế. Mà đặc biệt ở Lan hồ điệp Đà Nẵng, các chậu hoa được cắm rất “kiểu”, phô bày hết sức sự lộng lẫy của hoa.
✤ Các loại hoa ở đây đều có chung 1 nguồn hoàn toàn từ Đà Lạt, từ gốc hoa đến chậu hoa. Không chỉ nổi tiếng về hoa đẹp, Lan hồ điệp Đà Nẵng còn nổi tiếng là địa chỉ bán hoa lan Đà Nẵng giá rẻ, chính vì vậy rất được nhiều người ưu tiên lựa chọn.
3. Hoa Tươi Đà Nẵng – Hoa Lan Tại Đà Nẵng
Địa chỉ: K48/8 Tô Hiệu, Tp Đà Nẵng
Website: chúng tôi
Fanpage: chúng tôi
Điện thoại: 090 747 33 57
✤ Cũng là một cửa hàng hoa lan tại Đà Nẵng được nhiều người đón nhận, Hoa Tươi Đà Nẵng đã làm rất tốt trong việc chiếm lấy sự tin tưởng của những khách hàng yêu loài hoa này bằng những sản phẩm, chậu hoa chất lượng.
✤ Những chậu hoa lan được chăm chút tỉ mỉ, cẩn trọng, nở ra những bông hoa xinh đẹp nhất sau đó được chủ cửa hàng khéo léo trang trí bằng những thế chậu cây sang trọng cùng với những phụ kiện đính kèm. Thành phẩm của mỗi chậu lan đều khiến cho người đặt hàng vượt ngoài mong đợi.
Hoa lan tại Đà Nẵng
✤ Hoa đẹp 1, dáng đẹp 10. Điều làm cho người ta mê mẩn những chậu lan luôn là dáng của nó. Tinh tế và sang trọng.
✤ Đến mua hàng ở đây, bạn sẽ được nhiệt tình tư vấn và giải đáp thắc mác về hoa, cũng như được đưa ra lời khuyên nên chọn loại hoa nào để phù hợp với đối tượng mà mình muốn gửi tặng, bởi mỗi chậu hoa đều có một thông điệp hoàn toàn khác biệt.
4. Chợ Hoa Lan Đà Nẵng
Địa chỉ: 128 Điện Biên Phủ, Tp Đà Nẵng
✤ Nổi tiếng trong giới những người yêu thích và chơi lan tại thành phố Đà Nẵng trong thời gian trở lại đây là chợ hoa lan Đà Nẵng. Xuất phát là một nhóm vài người buôn lan có được nguồn là gốc lan rừng từ Đắc Lắc, Kontum, đem về bán. Tới nay đã có đến gần 20 người bán, trở thành một “chợ” lan nho nhỏ nhưng lúc nào cũng tấp nập người mua.
Chợ hoa lan Đà Nẵng
✤ Đây là địa điểm rất được những người chơi lan “nghiện” vì ở đây họ có thể tìm thấy những giống lan quý, hiếm như lan móng rồng, báo hỷ, bạch hỏa hoàng… Điều đặc biệt là ở đây không ai bán hoa hết, chỉ có gốc lan và thường được bán theo chùm, theo kg.
Cập nhật thông tin chi tiết về In Flexo Bao Pp Dệt trên website Duhocaustralia.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!