Bạn đang xem bài viết Giới Thiệu Về Hoa Lan được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Duhocaustralia.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Trong muôn ngàn loài hoa đua hương khoe sắc mà thượng đế đã ban cho loài người chúng ta, hoa lan được người Á Châu liệt vào hàng Vương giả chi hoa. Hoa lan Disa uniflora được mệnh danh là: Hoa của thượng đế (The flower of the God), lan Cattleya là Nữ hoàng của loài hoa (Queen of the flowers), hoa lan Angraecum sesquipedale là: Ngôi sao của thành Bê-lem (The star of Bethlehem), lan Brassavola nodosa: giai nhân trong bóng đêm.
Việt nam, quê hương của chúng ta cũng là quê hương của khoảng trên 140 loại hoa lan chia ra chừng 1000 giống nguyên thủy. Những cây lan này sinh sản tại các vùng rừng, núi Cao bằng, Cha pa, Lào Kay, Huế, Hải Vân, Quy nhơn, Kontum, Pleiku, Ban mê thuột, Phan Rang, Đà lạt, Di linh v.v… Trong số lan của Việt Nam có rất nhiều cây hiếm quý và có những cây trước kia chỉ thấy mọc ở Việt nam như cây lan nữ hài Paphiopedilum delenati, cánh trắng môi hồng do một binh sĩ người Pháp đã tìm thấy ở miền thượng du Bắc Việt vào năm 1913 sau đó người ta cũng tìm thấy tại Trung Việt vào năm 1922 và rồi mãi cho đến năm 1990-1991 mới tìm lại được ở Khánh hòa.
Gần 50 năm tuyệt tích, cây lan này đã làm giầu cho một số nhà trồng tỉa người Âu, đã cấy giống, gieo hạt, và bán ra với một giá khá cao.
Joao de Loureiro, một nhà truyền giáo đã tìm thấy cây lan Giáng hương quế Aerides odorata tại một vùng gần Huế và sau khi đi khắp một vòng Đông Nam Á châu, ông đã viết một một cuốn sách về các loại lan Aerides vào năm 1790. Một cây lan loại này giá bán tại Luân Đôn vào năm 1855 là 89 đồng Anh kim khoảng 225 Mỹ kim và một cây Vanda, giáo sư Phạm Hoàng Hộ gọi là Huệ Đà, nhưng những nhà chơi lan ở trong nước lại phiên âm là Vân Đa giá bán vào năm 1885 là 180 Anh kim, khoảng 450 Mỹ kim.
Hoa lan Cattleya màu vàng – Queen of the flowers
Rhynchostylis retusaNhiều cây lan Việt Nam, hoa thực là xinh đẹp, hương thơm ngào ngạt mà tên gọi lại thanh nhã, mỹ miều như: Bạch ngọc, Giáng xuân, Hạc đính, Long tu, Giã hạc, Kim điệp, Bạch phượng, Hoàng thảo, Ngọc điểm v.v… Trong văn học chẳng thiếu gì chuyện về lan như Hương cuội trong Vang bóng một thời của nhà văn Nguyễn Tuân và những chuyện tìm lan của nhà văn Nhất Linh.
Trước năm 1975 du khách lên Đà lạt, Lâm Đồng chỉ cần bỏ ra vài chục bạc là đã có những giò lan xinh đẹp. Tại khu chợ chim, chợ chó đường Hàm nghi thường được gọi là chợ Cũ cũng là nơi bầy bán những cụm lan rừng vào dịp cuối năm. Những buổi sáng mùa xuân, khách bộ hành khi đi qua con đường Duy Tân cây dài bóng mát, công viên Gia Long đầy rẫy những cây sao, tàn cao sừng sững, hoặc con đường Nguyễn bỉnh Khiêm cây xanh rợp bóng, thường thấy hương thơm như mùi trầm, mùi quế phảng phất đâu đây. Đó là huơng thơm của những chùm hoa Rhynchostylis gigantea trắng lấm tấm tím, đỏ mọc trên những hàng cây me, cây dầu, cây sao mà giới bình dân ở Saigon đã đặt cho một cái tên chẳng thanh tao chút nào: lan me, lan đuôi chồn mà quên hẳn cái tên đẹp đẽ và văn vẻ là Ngọc điểm đã có từ xưa.
Hiện nay trong nước có nhiều người sưu tầm và nghiên cứu về lan và cũng có những công ty trồng lan để bán và xuất cảng nhưng với số vốn hạn hẹp, kỹ thuật thô sơ nên không thể nào cạnh tranh nổi với các nước láng giềng đã có mặt trên thị trường quốc tế từ lâu. Ngoài ra do quy luật quốc tế bảo vệ các giống vật và cây hiếm quý do quy ước Convention on International Trade in Endangered Species of wild fauna and flora (CITIES) đã cấm mua bán một số đặc sản, cho nên hoa lan cuả Việt nam khó lòng được chính thức nhập cảng vào Hoa kỳ. Trong khi đó nhiều con buôn đã thuê người vào rừng thẳm, núi cao để kiếm lan bất kỳ lớn, nhỏ quý giá hay không đem bán cho các lái buôn Thái lan hoặc Đài loan với giá rẻ mạt: 2 Mỹ kim một kí lô. Những cụm lan rừng vẫn được bầy bán tại các hội hoa lan tại Santa Barbara hay South Coast Plaza có thể là xuất xứ tại Việt Nam.
Cymbidium ensifoliumNói về hoa lan, phải nói tới người Trung hoa. Tiếng LAN, chúng ta đã vay mượn của họ. Người Tầu đã biết về lan vào khoảng 2500 về trước. Thời đại của đức Khổng tử 551-479 trước thiên chúa giáng sinh đã có câu “Dâng hương lan cho chúa”. Năm dương lịch thứ 300 họ đã biết tới hoa lan đất Tử cán, Cymbidium ensifolium. Việt Nam cũng có thứ lan này, tên là Thanh ngọc, mọc từng bụi thấp nhỏ, lá dài chừng 40-50 phân, hoa xanh nhạt hoặc nâu nhạt, hương thơm ngát thường tìm thấy ở Lào kay, Hà nam, Kontum, Gia ray và Lâm đồng, giá bán tại Hoa kỳ độ 30-40$ một chậu nhỏ. Năm thứ 1000 người Trung hoa đã có sách nói về khoảng 1000 giống lan và chỉ dẫn cách trồng.
HOA LAN TẠI ÂU MỸHoa lan, đa số thường mọc tại các vùng nhiệt đới và đã được các thuyền trưởng, các lái buôn, các nhà truyền giáo, các khách du lịch mang về, cho nên người Âu châu biết đến rất muộn. Năm 1510 họ mới biết đến lan qua những trái Vanilla dùng cho bánh kẹo. Cây lan đầu tiên mang về Anh quốc là cây Disa uniflora do thuyền trưởng John Ray lấy về từ mũi Hảo vọng – Cape of Good Hope. Nhưng thực ra Âu châu cũng có nhiều giống lan như Dactylorhiza tại Anh, Gymnadenia rất thơm và nhiều hoa tại Pháp và Đức v.v… Cũng nên nói thêm là chữ ORCHID do chữ ORCHIS của Hy lạp. Vào năm thứ 75 dương lịch, có lẽ Pedanius Dioscorides khi nhìn thấy một củ lan nào đó, đã tượng hình mà đặt tên cho cây lan với cái tên theo nghĩa của Hy Lạp chẳng thanh nhã chút nào: Testicule = Ngọc hành.
Hoa Kỳ cũng có những loại lan nữ hài xinh đẹp như Cypripedium acaule mọc tại miền White Mountains thuộc tiểu bang New Hampshire. California cũng có thứ lan nữ hài mang tên tiểu bang thường thấy mọc tại công viên quốc gia Yosemite.
Cypripedium californicumBắt đầu từ năm 1731 các nhà khoa học và thảo mộc gia Âu – Mỹ mới bắt đầu nghiên cứu về lan và tìm cách phân loại theo các tiêu chuẩn: điều kiện tăng trưởng, sự sinh sản, và hình dáng. John Lindley sinh tại Anh quốc vào năm 1799, ông đã đi nhiều nơi nghiên cưú về lan và để lại cho thế giới bộ sách có thể nói là một bộ lan kinh vô cùng quý báu, hiện nay giá 1200$. Ông mất đi vào năm 1865 và được tặng phong tước hiệu Father of Orchids = Người cha của hoa lan.
Hội trồng tỉa hoàng gia Anh quốc, Royal Horticulture Society (RHS) được thành lập vào năm 1889, nhưng mãi đến năm 1897 mới chính thức phát giải thưởng cho hoa lan. Cây lan đầu tiên được giải nhất, First Class Certificate (FCC) là cây Cattleya dormaniana xuất xứ từ Costa Rica.
Hội hoa lan Hoa Kỳ, American Orchid Society (AOS) thành lập vào năm 1921 với số khởi thủy là 100 hội viên. Hiện nay tổng số khoảng 30,000 người bao gồm 330 chi hội nội địa và 170 chi hội thuộc các quốc gia khác trên thế giới. Muốn gia nhập hội hoa lan Hoa Kỳ chỉ cần gửi 60 $ niên liễm về địa chỉ: American Orchid Society, 16700 AOS Lane, Delray Beach, Florida 33446- 4351. Hội sẽ gửi tới tân hội viên một cuốn sách sơ lược về lan và cách trồng một vài loại lan thông thường, môt cuốn ghi rõ điều lệ và nội quy của hội,tên nhũng nhân viên trong ban chấp hành, những hội viên danh dự, các giám khảo, địa chỉ và điện thoại của các chi hội, các vườn lan địa phương v.v… ngoài ra các hội viên hàng tháng còn nhận được tờ nguyệt san hoa lan Orchids ghi rõ những hoạt động của hội và những bài khảo cứu có giá trị.
ĐẶC ĐIỂM CỦA HOA LANHoa lan sở dĩ được nhiều ưa chuộng là vì:
– Mầu sắc thắm tươi, đủ vẻ, từ trong như ngọc, trắng như ngà, êm mượt như nhung, mịn màng như phấn, tím sậm, đỏ nhạt, nâu, xanh, vàng, tía cho đến chấm phá, loang, sọc, vằn thẩy đều không thiếu.
– Hình dáng thực là khác trăm ngàn hình dạng khác nhau, dù rằng phần lớn chỉ là 5 cánh bao bọc chung quanh một cái môi = lip, nhưng mỗi thứ hoa lại có những dị biệt khác thường. Hoa lan có loại cánh tròn, có loại cánh dài nhọn hoắt,có loại cụp vào, có loại xoè ra có những đường chun xếp, vòng vèo, uốn éo, có loại có râu, có vòi quấn quýt, có những hoa giống như con bướm, con ong (Ophrys insectifera). Hoa lan có những bông nhỏ như đầu chiếc kim gút nhưng cũng có bụi lan Grammatophylum speciosum ở Phi luật thân cao gần 10 thước, dò hoa dài chừng 2 thước và nặng chừng một tấn. Lan này cũng mọc tại Việt nam nhưng chỉ cao độ 2-3 thước và mang cùng tên với cô ca sĩ nổi danh: Thanh Tuyền.
– Hương lan đủ loại: thơm ngát, dịu dàng, thoang thoảng, ngọt ngào, thanh cao, vương giả cho nên các bà,các cô đã phải trả một giá rất đắt cho bình nước hoa nhỏ síu. Tại Thái lan có một loại Vanda đươc giấu tên và được bảo vệ rất nghiêm ngặt, hương thơm dành riêng để cung cấp cho một nhà sản xuất nước hoa danh tiếng. Nếu hoa lan sớm nở, tối tàn thì dù cho có hương, sắc đến đâu cũng không thể nào được liệt vào loài hoa vương giả. Hoa lan nếu được giữ đúng nhiệt độ và ẩm độ có thể còn đươc nguyên hương, nguyên sắc từ 2 tuần lễ cho đến hai tháng, có những thứ lâu đến 4 tháng, có những thứ nở hoa liên tiếp quanh năm, nhưng cũng có loại chỉ 1-2 ngày đã tàn phai hương sắc.
Nhiều người thấy lan thường bám vào các cành cây, hốc đá nên nghĩ rằng lan là một loại tầm gửi (Parasite) nhưng thực ra lan không sống vào nhựa của cây. Lan chỉ bám vào đó mà sống, hấp thụ những tinh chất thiên nhiên do hoa, lá cây đã mục, phân chim và các tinh thể khác do nước mưa và gió vận chuyển tới.
Người ta thường gọi lầm tất cả các loại hoa lan là phong lan. Nhưng thực ra hoa lan mọc ở nhiều nơi và chia ra làm 4 loại sau đây: Epiphytes Phong lan bám vào cành hay thân cây. Terestrials Địa lan mọc dưới đất. Lithophytes Thạch lan mọc ở các kẽ đá. Saprophytes Hoại lan mọc trên lớp rêu hay gỗ mục
Lan mọc ở khắp năm châu, bốn biển, từ miền gió tuyết lạnh lùng cho đến vùng sa mạc nóng bỏng, khô cằn, từ miền núi cao, rừng thẳm cho đến các đồng cỏ của miền bình nguyên và ngay cả các vùng sình lầy đâu đâu cũng có lan. Đa số lan ưa mọc tại các rừng cây nhiệt đới nhất là tại giẫy núi Andes miền Nam Mỹ và giẫy Hy mã lạp sơn thuộc Á châu. Những nơi này, phần đông cao từ 3000 bộ đến 7000 bộ và nhiệt độ thay đổi từ 50 đến 90°F và mỗi tháng mưa ít nhất là 3-4 inches nước.
Lan thuộc vào một loài hoa đông đảo với khoảng chừng 750 loài và 30,000 giống nguyên thủy và chừng độ một triệu đã được lai giống nhân tạo hay thiên tạo, hoa lan (Orchidaceae) là một loài hoa đông đảo vào bậc thứ nhì sau hoa cúc (Asteraceae). Sở dĩ chúng tôi phải dùng chữ khoảng chừng vì hiện nay lan còn mọc ở nhiều nơi thâm sơn cùng cốc chưa ai biết đến. Riêng tại Việt Nam, trong những thập niên vưà qua người ta đã tìm thấy mấy cây chưa từng có trong danh mục hoa lan quốc tế. Đó là những cây Christensonia viêtnamica, Renanthera citrina, Paphiopedilum helenae, Paphiopedilum vietnamense và Paphiopedilum hiepii.
Cây lan Calanthe Dorminii là cây đầu tiên được ghép giống vào năm 1858, loại này tên Việt là Kiều lan hay nôm na gọi là lan bầu rượu. Hiện nay Viện cầu chứng quốc tế, thuộc Hội trồng tỉa hoàng gia Anh quốc (International Registration Authority for Orchid Hybrids) hàng tháng đã chứng nhận tên họ cũng như tác quyền thương mại cho khoảng chừng 300-400 thứ lan mới ghép giống trên toàn thế giớị.
TÊN CÂY LANTên những cây lan gồm 4 phần:
1- Hàng chữ đầu tiên mang loài của cây lan thí dụ như Cattleya. Cymbidium Oncidium, Phalaenopsis, Paphiopedilum v.v…
2- Hàng chữ thứ hai chỉ tên cây lan. Tên cây lan nguyên giống được viết nghiêng bằng chữ thường thí dụ như Paphiopedilum hiepii. mang tên giáo sư Nguyễn Tiến Hiệp người đã tìm ra, hoặc mang tên nơi chốn khởi thủy đã tìm thấy như Paphiopedilum philippinense, tên một thứ lan nữ hài đã tìm thấy ở Phi luật tân. Tên này cũng dùng để chỉ mầu sắc như Masdevallia coccinea, coccinea có nghĩa là mầu đỏ, hoặc để chỉ hương thơm như Aerides odorata hay để chỉ trạng thái của hoa như Dendrobium pendula, tên Việt là Hoàng nhạn có chùm hoa dàì thõng xuống.
3- Nếu tên viết bằng chữ hoa như Paphiopedalum Olivia, chỉ cho ta biết là lan đã được ghép giống (do cây Paphiopedilum niveum ghép với lan Paphiopedilum tonsum, tên này đã được cầu chứng vào năm 1988.)
4- Thí dụ ông Phạm Hải Nam trồng cây lan này, hoa nở rất đẹp ông mang đi dự thi và được giải nhất, cây này sẽ mang thêm tên do ông Nam đặt cho và giải thưởng như sau: Paph. Olivia ‘Hai Nam’ FCC / AOS
Hội hoa lan Hoa Kỳ có những giải thưởng sau: FCC First Class Certificate = hạng nhất AM Award of Merit = hạng nhì HCC Highly Commended Certificate = hạng ba C.C.M Certificate of Cutural Merit = giải trồng tỉa AOS American Orchid Society = Hội Hoa lan Hoa kỳ.
Ngày xưa muốn có hoa lan, người ta phải lăn lội vào rừng thẳm, núi cao để tìm kiếm. Nhưng bắt đầu từ năm 1898 người ta đã thành công trong việc gieo hạt và thương mại phát triển mạnh từ năm 1908. Thông thường các giống hoa khác đều có hoa đực và hoa cái riêng biệt nhưng hoa lan lại có cả nhị đực và cái trong một bông hoa, ngoại trừ một vài giống như Catasetum v.v… Mới đầu còn nhờ đến côn trùng trong việc thụ phấn nhưng sau đó người ta đã làm được việc này trong vòng 1 phút và ai cũng có thể làm được, ngoại trừ một vài giống khá khó khăn. Một quả lan trung bình có chừng một triệu hạt nhỏ và có thể lấy hạt trong những thời hạn khác nhau tùy theo giống lan. Nhưng khi gieo hạt cho cây ra mầm là một việc khá nhiêu khê nào là khử trùng, khử nấm và những dung dịch cho lan nẩy mầm. Vào năm 1960, giáo sư Georges Morel người Pháp đã phát minh ra phương pháp Meristem, tức là cắt mầm hay rễ lan thành từng mảnh nhỏ rồi cho vào trong một dung dịch đặc biệt, để trên máy vừa quay,vừa lắc. Vài tuần sau, mảnh lan này sẽ trở thành một khối như tơ sợi, đem chia ra và trồng sẽ thành những cây lan nhỏ. Mới đầu giáo sư Morel thí nghiệm với khoai tây và hoa thược dược rồi mới tới lan Cymbidium. Sau đó các khoa học gia Âu Mỹ đem ứng dụng cho các loại lan khác. Nhà trồng lan Vacherot – Lecouffle tại Pháp là nơi đầu tiên bán ra những loại lan cấy theo phương pháp này vào năm 1964. Nhờ phương pháp Meristem nên nhiều giống lan hiếm quý không bị tuyệt chủng, nhưng cũng vì đó mà giá lan hạ hẳn xuống.
Nhờ phương tiện dồi dào, sách vở đầy rẫy, trình độ học vấn, kỹ thuật cao xa cho nên ngày nay nhiều nhà chơi lan tài tử cũng có thể cấy lan theo hai cách kể trên. Lan trồng bằng hạt, khi ra hoa mỗi cây có đôi chút khác nhau, nhưng cây lan do cấy mô tạo thành tất cả đều giống như cây mẹ. Việc trồng lan bây giờ đã biến thành một thứ kỹ nghệ với số vốn đầu tư lên tới vàì chục triệu đồng. Địa phương nào cũng có những vườn lan, lớn có thể từ 5-10 chiếc nhà kính đến 30-40 mẫu tây, nhỏ từ hàng hiên cho đến vườn cây có che nắng.
Lan, giá không quá đắt, trung bình 10-30$ một chậu, trồng lan không quá mất nhiều thì giờ, cần 10-15 phút một tuần cho 15-20 chậu. Lan không quá khó trồng và cũng không cần phải có hoa tay green thumbs như nhiều người đã nghĩ, chỉ cần sự quyết tâm và chú trọng tới những điểm trong các bài chỉ dẫn sau đây là đủ.
Giới Thiệu Về Hoa Phong Lan
Nói đến Hoa Phong Lan là nói đến loài hoa với vẻ đẹp cao sang quý phái. Hoa Phong Lan là một loài thuộc họ nhà Lan. Người ta thường gọi lầm tất cả các loại hoa lan là phong lan. Nhưng thực ra hoa lan mọc ở nhiều nơi và chia ra làm 4 loại sau đây:
Phong lan bám vào cành hay thân cây. Terestrials Địa lan mọc dưới đất. Lithophytes Thạch lan mọc ở các kẽ đá. Saprophytes Hoại lan mọc trên lớp rêu hay gỗ mục
Đặc điểm chung của họ nhà LanHọ nhà Lan có đặc điểm mà có thể dễ dàng nhận ra mặc dù có rất nhiều giống loài với hàng hàng đặc điểm khác nhau. Phần lớn hoa lan chỉ có 5 cánh bao bọc chung quanh một cái môi = lip, nhưng mỗi thứ hoa lại có những dị biệt khác thường. Hoa lan có loại cánh tròn, có loại cánh dài nhọn hoắt,có loại cụp vào, có loại xoè ra có những đường chun xếp, vòng vèo, uốn éo, có loại có râu, có vòi quấn quýt, có những hoa giống như con bướm, con ong (Ophrys insectifera). Hoa lan có những bông nhỏ như đầu chiếc kim gút nhưng cũng có bụi lan Grammatophylum speciosum ở Phi luật thân cao gần 10 thước, dò hoa dài chừng 2 thước và nặng chừng một tấn.
Hương thơm của lan cũng đủ loại những thường có hương thơm ngát, dịu dàng, thoang thoảng, ngọt ngào, thanh cao, vương giả. Hoa lan nếu được giữ đúng nhiệt độ và ẩm độ có thể còn đươc nguyên hương, nguyên sắc từ 2 tuần lễ cho đến hai tháng, có những thứ lâu đến 4 tháng, có những thứ nở hoa liên tiếp quanh năm, nhưng cũng có loại chỉ 1-2 ngày đã tàn phai hương sắc.
Mầu sắc của lan cũng hết sức đa dạng nào là thắm tươi, từ trong như ngọc, trắng như ngà, êm mượt như nhung, mịn màng như phấn, tím sậm, đỏ nhạt, nâu, xanh, vàng, tía cho đến chấm phá, loang, sọc, vằn thẩy đều không thiếu.
Nhiều người thấy lan thường bám vào các cành cây, hốc đá nên nghĩ rằng lan là một loại tầm gửi (Parasite) nhưng thực ra lan không sống vào nhựa của cây. Lan chỉ bám vào đó mà sống, hấp thụ những tinh chất thiên nhiên do hoa, lá cây đã mục, phân chim và các tinh thể khác do nước mưa và gió vận chuyển tới.
Lan mọc ở khắp năm châu, bốn biển, từ miền gió tuyết lạnh lùng cho đến vùng sa mạc nóng bỏng, khô cằn, từ miền núi cao, rừng thẳm cho đến các đồng cỏ của miền bình nguyên và ngay cả các vùng sình lầy đâu đâu cũng có lan. Đa số lan ưa mọc tại các rừng cây nhiệt đới nhất là tại giẫy núi Andes miền Nam Mỹ và giẫy Hy mã lạp sơn thuộc Á châu. Những nơi này, phần đông cao từ 3000 bộ đến 7000 bộ và nhiệt độ thay đổi từ 50 đến 90°F và mỗi tháng mưa ít nhất là 3-4 inches nước.
Lan thuộc vào một loài hoa đông đảo với khoảng chừng 750 loài và 30,000 giống nguyên thủy và chừng độ một triệu đã được lai giống nhân tạo hay thiên tạo, hoa lan (Orchidaceae) là một loài hoa đông đảo vào bậc thứ nhì sau hoa cúc (Asteraceae). Sở dĩ chúng tôi phải dùng chữ khoảng chừng vì hiện nay lan còn mọc ở nhiều nơi thâm sơn cùng cốc chưa ai biết đến. Riêng tại Việt Nam, trong những thập niên vưà qua người ta đã tìm thấy mấy cây chưa từng có trong danh mục hoa lan quốc tế. Đó là những cây Christensonia viêtnamica, Renanthera citrina, Paphiopedilum helenae, Paphiopedilum vietnamense và Paphiopedilum hiepii.
Ý nghĩa của hoa lanHoa lan có thể truyền đạt nhiều thông điệp, nhưng lịch sử ý nghĩa của hoa phong lan bao gồm sự giàu có, tình yêu,và vẻ đẹp. Đối với người Hy Lạp cổ đại, hoa lan vinh danh những anh hùng, và sau khi sự gia tăng phổ biến của những bộ sưu tập phong lan ở Anh thời Victoria, ý nghĩa của hoa phong lan chuyển dần dần trở thành biểu tượng của sự sang trọng. Hoa lan cũng đã được cho rằng là một vị thuốc chữa các bệnh khác nhau và phòng bệnh, cho phép con người tránh khỏi bệnh tật. Người Aztec uống một hỗn hợp của hoa phong lan vani và sô-cô-la để cung cấp cho họ quyền lực và sức mạnh, và người Trung Quốc tin rằng hoa lan có thể giúp chữa trị bệnh phổi và ho.
Ngày nay, ý nghĩa của hoa phong lan được coi là một biểu tượng của vẻ đẹp hiếm thấy và tinh tế. Hoa lan là loại hoa được trồng để làm đẹp cho ngôi nhà phổ biến nhất, cùng với hoa lily. Sự quyến rũ và huyền bí của hoa lan làm cho những người nhận được hoa lan thích thú, mà các loại hoa khác không có khả năng gây ấn tượng với người nhận theo cách mà hoa phong lan có thể. Trong số các loại hoa được biết, hoa lan chiếm một vị trí đặc biệt như là một trong những loài hoa lôi cuốn và quyến rũ, làm cho chúng trở thành một sự lựa chọn đặc biệt khi bạn muốn thể hiện tình cảm với những người quý giá trong cuộc sống của bạn.
Giới Thiệu Về Lan Hài
Giống Lan Hài Paplliopedilum gồm hơn 66 loài phân bố từ Ấn Độ, New Ghine và vùng Đông Nam Á, người Pháp gọi loài thuộc giống này là Hài vệ nữ Sabot de Venus và người Anh dùng với ý nghĩa tương tự Lady’s slippers
Họ phụ: Cypripedioideae. Tông Cypripedieae.
Ở Việt Nam có ít nhất 10 loài lan Hài, trong đó có 1 loài đặc hữu được cả thế giới ưa chuộng là hài hồng (Paphiopedilun Delenatii). Trước đây loài này rất hiếm nhưng từ năm 1993 trở lại đây, loài này được phát hiện có nhiều ở vùng căn cứ Bác Ái thuộc huyện Ninh Sơn (Ninh Thuận), vùng Hòn Nhạn (Phú Yên) và Krông Bông (Đaklak).
Ba loài cho màu sắc đẹp có giá trị thương mại hiện nay đang khai thác nhiều là Paphiopedilum Callosum (Vân Hài), Paphiopedilum Vilosum (Kim Hài) và Paphiopedilum Appletonianum (Hài cánh sen).
Quê hương của 3 loài lan Hài đẹp thông dụng là vùng cao nguyên Nam Trung Bộ có cao độ thấp hơn 1000m, trải dài từ Di Linh đến Lang Hanh. Nếu như loài Paphiopedilum callosum (Vân hài) chỉ mọc trên đất dựa suối, thì loài Paphiopedilum appletonianum chỉ mọc trên những hốc đá, dưới thác nước cao, còn loài Paphiopedilum villosum lại ở dạng trung gian có thể mọc trên đất và trên cây hay trên đá.
Hai loài P. callosum và P.appletonianum có dạng lá gần giống nhau nhưng phát hoa và hoa của chúng rất khác nhau. P.callosum có phát hoa trung bình 20cm, trong khi P. appletonianum có phát hoa dài 40-50cm. Cả 3 loài đều cho 1-2 hoa trên 1 trục phát hoa với đường kính 10-15cm.
Paphiopedilum thích một nhiệt độ mát và ẩm từ 18oC – 21oC. Cây thích ẩm, nhưng không chịu úng, ánh sáng cần thiết khoảng 30% với cường độ 8.000-10.000 Lm/m2. Giá thể cấu tạo như Hạc đỉnh, dinh duỡng phân bón cũng tương tự. Các loài thuộc giống này không có mùa nghỉ vì thế phải tưới nước rất đều đặn 3 lần/ngày trong mùa nắng và 2 lần/ngày vào mùa mưa. Paphiopedilum là lan có pH của giá thể và nước tưới cao, pH từ 6,5 đến 7.
Paphiopedilum có căn hành dưới đất, nên có khả năng mọc con như một số loài tre. Việc nhân giống được tiến hành khi cây con đã đến tuổi trưởng thành, có thể tách cây con ra khỏi cây mẹ với một ít giá thể có bám rễ và trồng vào một chậu khác.
Vì cùng chung một họ: Cypriprediae và hoa lại trông hơi giống nhau, cho nên nhiều người gọi chung 5 loại: Cypripedium, Mexipedium, Paphiopedilum, Phramipedium và Selenipedium đều là Nữ hài hay Vệ hài “Cyps”. Sở dĩ loài hoa này có tên kể trên bởi vì hình dáng giống như một chiếc hài và do chữ Hy Lạp mà ra: Paphos = Venus (Vệ nữ) Pedilon = sandal (giầy dép) và thường được gọi chung là Lady’s Slipper Orchids. Giống lan này hoa lâu tàn, có khi tới 2 tháng. Nữ hài Paphiopedilum có khoảng chừng 75 giống mọc ở Á Châu, Việt nam có khoảng trên 20 giống, trong đó có vài cây lai giống do thiên nhiên.
Giới Thiệu Tổng Quát Về Hoa Lan
Trong muôn ngàn loài hoa đua hương khoe sắc mà thượng đế đã ban cho loài người chúng ta, hoa lan được người Á Châu liệt vào hàng Vương giả chi hoa. Hoa lan Disa uniflora được mệnh danh là: Hoa của thượng đế (The flower of the God), lan Cattleya là Nữ hoàng của loài hoa (Queen of the flowers), hoa lan Angraecum sesquipedale là: Ngôi sao của thành Bê-lem (The star of Bethlehem), lan Brassavola nodosa: giai nhân trong bóng đêm.
Giới thiệu tổng quát về hoa lan Lan Brassavola nodosaViệt nam, quê hương của chúng ta cũng là quê hương của khoảng trên 140 loại hoa lan chia ra chừng 1000 giống nguyên thủy. Những cây lan này sinh sản tại các vùng rừng, núi Cao bằng, Cha pa, Lào Kay, Huế, Hải Vân, Quy nhơn, Kontum, Pleiku, Ban mê thuột, Phan Rang, Đà lạt, Di linh v.v…
Trong số lan của Việt Nam có rất nhiều cây hiếm quý và có những cây trước kia chỉ thấy mọc ở Việt nam như cây lan nữ hài Paphiopedilum delenati, cánh trắng môi hồng do một binh sĩ người Pháp đã tìm thấy ở miền thượng du Bắc Việt vào năm 1913 sau đó người ta cũng tìm thấy tại Trung Việt vào năm 1922 và rồi mãi cho đến năm 1990-1991 mới tìm lại được ở Khánh hòa.
Gần 50 năm tuyệt tích, cây lan này đã làm giầu cho một số nhà trồng tỉa người Âu, đã cấy giống, gieo hạt, và bán ra với một giá khá cao.
Joao de Loureiro, một nhà truyền giáo đã tìm thấy cây lan Giáng hương quế Aerides odorata tại một vùng gần Huế và sau khi đi khắp một vòng Đông Nam Á châu, ông đã viết một một cuốn sách về các loại lan Aerides vào năm 1790.
Một cây lan loại này giá bán tại Luân Đôn vào năm 1855 là 89 đồng Anh kim khoảng 225 Mỹ kim và một cây Vanda, giáo sư Phạm Hoàng Hộ gọi là Huệ Đà, nhưng những nhà chơi lan ở trong nước lại phiên âm là Vân Đa giá bán vào năm 1885 là 180 Anh kim, khoảng 450 Mỹ kim.
Rhynchostylis retusaNhiều cây lan Việt Nam, hoa thực là xinh đẹp, hương thơm ngào ngạt mà tên gọi lại thanh nhã, mỹ miều như: Bạch ngọc, Giáng xuân, Hạc đính, Long tu, Giã hạc, Kim điệp, Bạch phượng, Hoàng thảo, Ngọc điểm v.v… Trong văn học chẳng thiếu gì chuyện về lan như Hương cuội trong Vang bóng một thời của nhà văn Nguyễn Tuân và những chuyện tìm lan của nhà văn Nhất Linh.
Trước năm 1975 du khách lên Đà lạt, Lâm Đồng chỉ cần bỏ ra vài chục bạc là đã có những giò lan xinh đẹp. Tại khu chợ chim, chợ chó đường Hàm nghi thường được gọi là chợ Cũ cũng là nơi bầy bán những cụm lan rừng vào dịp cuối năm.
Những buổi sáng mùa xuân, khách bộ hành khi đi qua con đường Duy Tân cây dài bóng mát, công viên Gia Long đầy rẫy những cây sao, tàn cao sừng sững, hoặc con đường Nguyễn bỉnh Khiêm cây xanh rợp bóng, thường thấy hương thơm như mùi trầm, mùi quế phảng phất đâu đây.
Đó là huơng thơm của những chùm hoa Rhynchostylis gigantea trắng lấm tấm tím, đỏ mọc trên những hàng cây me, cây dầu, cây sao mà giới bình dân ở Saigon đã đặt cho một cái tên chẳng thanh tao chút nào: lan me, lan đuôi chồn mà quên hẳn cái tên đẹp đẽ và văn vẻ là Ngọc điểm đã có từ xưa.
Hiện nay trong nước có nhiều người sưu tầm và nghiên cứu về lan và cũng có những công ty trồng lan để bán và xuất cảng nhưng với số vốn hạn hẹp, kỹ thuật thô sơ nên không thể nào cạnh tranh nổi với các nước láng giềng đã có mặt trên thị trường quốc tế từ lâu.
Ngoài ra do quy luật quốc tế bảo vệ các giống vật và cây hiếm quý do quy ước Convention on International Trade in Endangered Species of wild fauna and flora (CITIES) đã cấm mua bán một số đặc sản, cho nên hoa lan cuả Việt nam khó lòng được chính thức nhập cảng vào Hoa kỳ.
Trong khi đó nhiều con buôn đã thuê người vào rừng thẳm, núi cao để kiếm lan bất kỳ lớn, nhỏ quý giá hay không đem bán cho các lái buôn Thái lan hoặc Đài loan với giá rẻ mạt: 2 Mỹ kim một kí lô. Những cụm lan rừng vẫn được bầy bán tại các hội hoa lan tại Santa Barbara hay South Coast Plaza có thể là xuất xứ tại Việt Nam.
Cymbidium ensifoliumNói về hoa lan, phải nói tới người Trung hoa. Tiếng LAN, chúng ta đã vay mượn của họ. Người Tầu đã biết về lan vào khoảng 2500 về trước. Thời đại của đức Khổng tử 551-479 trước thiên chúa giáng sinh đã có câu “Dâng hương lan cho chúa”. Năm dương lịch thứ 300 họ đã biết tới hoa lan đất Tử cán, Cymbidium ensifolium. Việt Nam cũng có thứ lan này, tên là Thanh ngọc, mọc từng bụi thấp nhỏ, lá dài chừng 40-50 phân, hoa xanh nhạt hoặc nâu nhạt, hương thơm ngát thường tìm thấy ở Lào kay, Hà nam, Kontum, Gia ray và Lâm đồng, giá bán tại Hoa kỳ độ 30-40$ một chậu nhỏ. Năm thứ 1000 người Trung hoa đã có sách nói về khoảng 1000 giống lan và chỉ dẫn cách trồng.
Hoa lan, đa số thường mọc tại các vùng nhiệt đới và đã được các thuyền trưởng, các lái buôn, các nhà truyền giáo, các khách du lịch mang về, cho nên người Âu châu biết đến rất muộn. Năm 1510 họ mới biết đến lan qua những trái Vanilla dùng cho bánh kẹo. Cây lan đầu tiên mang về Anh quốc là cây Disa uniflora do thuyền trưởng John Ray lấy về từ mũi Hảo vọng – Cape of Good Hope.
Nhưng thực ra Âu châu cũng có nhiều giống lan như Dactylorhiza tại Anh, Gymnadenia rất thơm và nhiều hoa tại Pháp và Đức v.v… Cũng nên nói thêm là chữ ORCHID do chữ ORCHIS của Hy lạp.
Vào năm thứ 75 dương lịch, có lẽ Pedanius Dioscorides khi nhìn thấy một củ lan nào đó, đã tượng hình mà đặt tên cho cây lan với cái tên theo nghĩa của Hy Lạp chẳng thanh nhã chút nào: Testicule = Ngọc hành.
Hoa Kỳ cũng có những loại lan nữ hài xinh đẹp như Cypripedium acaule mọc tại miền White Mountains thuộc tiểu bang New Hampshire. California cũng có thứ lan nữ hài mang tên tiểu bang thường thấy mọc tại công viên quốc gia Yosemite.
Cypripedium californicumBắt đầu từ năm 1731 các nhà khoa học và thảo mộc gia Âu – Mỹ mới bắt đầu nghiên cứu về lan và tìm cách phân loại theo các tiêu chuẩn: điều kiện tăng trưởng, sự sinh sản, và hình dáng.
John Lindley sinh tại Anh quốc vào năm 1799, ông đã đi nhiều nơi nghiên cưú về lan và để lại cho thế giới bộ sách có thể nói là một bộ lan kinh vô cùng quý báu, hiện nay giá 1200$. Ông mất đi vào năm 1865 và được tặng phong tước hiệu Father of Orchids = Người cha của hoa lan.
Hội trồng tỉa hoàng gia Anh quốc, Royal Horticulture Society (RHS) được thành lập vào năm 1889, nhưng mãi đến năm 1897 mới chính thức phát giải thưởng cho hoa lan. Cây lan đầu tiên được giải nhất, First Class Certificate (FCC) là cây Cattleya dormaniana xuất xứ từ Costa Rica.
Hội hoa lan Hoa Kỳ, American Orchid Society (AOS) thành lập vào năm 1921 với số khởi thủy là 100 hội viên. Hiện nay tổng số khoảng 30,000 người bao gồm 330 chi hội nội địa và 170 chi hội thuộc các quốc gia khác trên thế giới.
Muốn gia nhập hội hoa lan Hoa Kỳ chỉ cần gửi 60 $ niên liễm về địa chỉ: American Orchid Society, 16700 AOS Lane, Delray Beach, Florida 33446- 4351.
Hội sẽ gửi tới tân hội viên một cuốn sách sơ lược về lan và cách trồng một vài loại lan thông thường, môt cuốn ghi rõ điều lệ và nội quy của hội,tên nhũng nhân viên trong ban chấp hành, những hội viên danh dự, các giám khảo, địa chỉ và điện thoại của các chi hội, các vườn lan địa phương v.v… ngoài ra các hội viên hàng tháng còn nhận được tờ nguyệt san hoa lan Orchids ghi rõ những hoạt động của hội và những bài khảo cứu có giá trị.
ĐẶC ĐIỂM CỦA HOA LANHoa lan sở dĩ được nhiều ưa chuộng là vì:
– Mầu sắc thắm tươi, đủ vẻ, từ trong như ngọc, trắng như ngà, êm mượt như nhung, mịn màng như phấn, tím sậm, đỏ nhạt, nâu, xanh, vàng, tía cho đến chấm phá, loang, sọc, vằn thẩy đều không thiếu.
– Hình dáng thực là khác trăm ngàn hình dạng khác nhau, dù rằng phần lớn chỉ là 5 cánh bao bọc chung quanh một cái môi = lip, nhưng mỗi thứ hoa lại có những dị biệt khác thường. Hoa lan có loại cánh tròn, có loại cánh dài nhọn hoắt,có loại cụp vào, có loại xoè ra có những đường chun xếp, vòng vèo, uốn éo, có loại có râu, có vòi quấn quýt, có những hoa giống như con bướm, con ong (Ophrys insectifera).
Hoa lan có những bông nhỏ như đầu chiếc kim gút nhưng cũng có bụi lan Grammatophylum speciosum ở Phi luật thân cao gần 10 thước, dò hoa dài chừng 2 thước và nặng chừng một tấn. Lan này cũng mọc tại Việt nam nhưng chỉ cao độ 2-3 thước và mang cùng tên với cô ca sĩ nổi danh: Thanh Tuyền.
– Hương lan đủ loại: thơm ngát, dịu dàng, thoang thoảng, ngọt ngào, thanh cao, vương giả cho nên các bà,các cô đã phải trả một giá rất đắt cho bình nước hoa nhỏ síu. Tại Thái lan có một loại Vanda đươc giấu tên và được bảo vệ rất nghiêm ngặt, hương thơm dành riêng để cung cấp cho một nhà sản xuất nước hoa danh tiếng.
Nếu hoa lan sớm nở, tối tàn thì dù cho có hương, sắc đến đâu cũng không thể nào được liệt vào loài hoa vương giả. Hoa lan nếu được giữ đúng nhiệt độ và ẩm độ có thể còn đươc nguyên hương, nguyên sắc từ 2 tuần lễ cho đến hai tháng, có những thứ lâu đến 4 tháng, có những thứ nở hoa liên tiếp quanh năm, nhưng cũng có loại chỉ 1-2 ngày đã tàn phai hương sắc.
Nhiều người thấy lan thường bám vào các cành cây, hốc đá nên nghĩ rằng lan là một loại tầm gửi (Parasite) nhưng thực ra lan không sống vào nhựa của cây. Lan chỉ bám vào đó mà sống, hấp thụ những tinh chất thiên nhiên do hoa, lá cây đã mục, phân chim và các tinh thể khác do nước mưa và gió vận chuyển tới.
Người ta thường gọi lầm tất cả các loại hoa lan là phong lan. Nhưng thực ra hoa lan mọc ở nhiều nơi và chia ra làm 4 loại sau đây:
Epiphytes Phong lan bám vào cành hay thân cây.
Terestrials Địa lan mọc dưới đất.
Lithophytes Thạch lan mọc ở các kẽ đá.
Saprophytes Hoại lan mọc trên lớp rêu hay gỗ mục
Lan mọc ở khắp năm châu, bốn biển, từ miền gió tuyết lạnh lùng cho đến vùng sa mạc nóng bỏng, khô cằn, từ miền núi cao, rừng thẳm cho đến các đồng cỏ của miền bình nguyên và ngay cả các vùng sình lầy đâu đâu cũng có lan.
Đa số lan ưa mọc tại các rừng cây nhiệt đới nhất là tại giẫy núi Andes miền Nam Mỹ và giẫy Hy mã lạp sơn thuộc Á châu. Những nơi này, phần đông cao từ 3000 bộ đến 7000 bộ và nhiệt độ thay đổi từ 50 đến 90°F và mỗi tháng mưa ít nhất là 3-4 inches nước.
Lan thuộc vào một loài hoa đông đảo với khoảng chừng 750 loài và 30,000 giống nguyên thủy và chừng độ một triệu đã được lai giống nhân tạo hay thiên tạo, hoa lan (Orchidaceae) là một loài hoa đông đảo vào bậc thứ nhì sau hoa cúc (Asteraceae).
Sở dĩ chúng tôi phải dùng chữ khoảng chừng vì hiện nay lan còn mọc ở nhiều nơi thâm sơn cùng cốc chưa ai biết đến. Riêng tại Việt Nam, trong những thập niên vưà qua người ta đã tìm thấy mấy cây chưa từng có trong danh mục hoa lan quốc tế.
Đó là những cây Christensonia viêtnamica, Renanthera citrina, Paphiopedilum helenae, Paphiopedilum vietnamense và Paphiopedilum hiepii.
Cây lan Calanthe Dorminii là cây đầu tiên được ghép giống vào năm 1858, loại này tên Việt là Kiều lan hay nôm na gọi là lan bầu rượu. Hiện nay Viện cầu chứng quốc tế, thuộc Hội trồng tỉa hoàng gia Anh quốc (International Registration Authority for Orchid Hybrids) hàng tháng đã chứng nhận tên họ cũng như tác quyền thương mại cho khoảng chừng 300-400 thứ lan mới ghép giống trên toàn thế giớị.
TÊN CÂY LANTên những cây lan gồm 4 phần:
1- Hàng chữ đầu tiên mang loài của cây lan thí dụ như Cattleya. Cymbidium Oncidium, Phalaenopsis, Paphiopedilum v.v…
2- Hàng chữ thứ hai chỉ tên cây lan. Tên cây lan nguyên giống được viết nghiêng bằng chữ thường thí dụ như Paphiopedilum hiepii. mang tên giáo sư Nguyễn Tiến Hiệp người đã tìm ra, hoặc mang tên nơi chốn khởi thủy đã tìm thấy như Paphiopedilum philippinense, tên một thứ lan nữ hài đã tìm thấy ở Phi luật tân.
Tên này cũng dùng để chỉ mầu sắc như Masdevallia coccinea, coccinea có nghĩa là mầu đỏ, hoặc để chỉ hương thơm như Aerides odorata hay để chỉ trạng thái của hoa như Dendrobium pendula, tên Việt là Hoàng nhạn có chùm hoa dàì thõng xuống.
3- Nếu tên viết bằng chữ hoa như Paphiopedalum Olivia, chỉ cho ta biết là lan đã được ghép giống (do cây Paphiopedilum niveum ghép với lan Paphiopedilum tonsum, tên này đã được cầu chứng vào năm 1988.)
4- Thí dụ ông Phạm Hải Nam trồng cây lan này, hoa nở rất đẹp ông mang đi dự thi và được giải nhất, cây này sẽ mang thêm tên do ông Nam đặt cho và giải thưởng như sau: Paph. Olivia ‘Hai Nam’ FCC / AOS
Ngày xưa muốn có hoa lan, người ta phải lăn lội vào rừng thẳm, núi cao để tìm kiếm. Nhưng bắt đầu từ năm 1898 người ta đã thành công trong việc gieo hạt và thương mại phát triển mạnh từ năm 1908.
Thông thường các giống hoa khác đều có hoa đực và hoa cái riêng biệt nhưng hoa lan lại có cả nhị đực và cái trong một bông hoa, ngoại trừ một vài giống như Catasetum v.v…
Mới đầu còn nhờ đến côn trùng trong việc thụ phấn nhưng sau đó người ta đã làm được việc này trong vòng 1 phút và ai cũng có thể làm được, ngoại trừ một vài giống khá khó khăn. Một quả lan trung bình có chừng một triệu hạt nhỏ và có thể lấy hạt trong những thời hạn khác nhau tùy theo giống lan.
Nhưng khi gieo hạt cho cây ra mầm là một việc khá nhiêu khê nào là khử trùng, khử nấm và những dung dịch cho lan nẩy mầm. Vào năm 1960, giáo sư Georges Morel người Pháp đã phát minh ra phương pháp Meristem, tức là cắt mầm hay rễ lan thành từng mảnh nhỏ rồi cho vào trong một dung dịch đặc biệt, để trên máy vừa quay,vừa lắc.
Vài tuần sau, mảnh lan này sẽ trở thành một khối như tơ sợi, đem chia ra và trồng sẽ thành những cây lan nhỏ. Mới đầu giáo sư Morel thí nghiệm với khoai tây và hoa thược dược rồi mới tới lan Cymbidium. Sau đó các khoa học gia Âu Mỹ đem ứng dụng cho các loại lan khác.
Nhà trồng lan Vacherot – Lecouffle tại Pháp là nơi đầu tiên bán ra những loại lan cấy theo phương pháp này vào năm 1964. Nhờ phương pháp Meristem nên nhiều giống lan hiếm quý không bị tuyệt chủng, nhưng cũng vì đó mà giá lan hạ hẳn xuống.
Nhờ phương tiện dồi dào, sách vở đầy rẫy, trình độ học vấn, kỹ thuật cao xa cho nên ngày nay nhiều nhà chơi lan tài tử cũng có thể cấy lan theo hai cách kể trên. Lan trồng bằng hạt, khi ra hoa mỗi cây có đôi chút khác nhau, nhưng cây lan do cấy mô tạo thành tất cả đều giống như cây mẹ.
Việc trồng lan bây giờ đã biến thành một thứ kỹ nghệ với số vốn đầu tư lên tới vàì chục triệu đồng. Địa phương nào cũng có những vườn lan, lớn có thể từ 5-10 chiếc nhà kính đến 30-40 mẫu tây, nhỏ từ hàng hiên cho đến vườn cây có che nắng.
Lan, giá không quá đắt, trung bình 10-30$ một chậu, trồng lan không quá mất nhiều thì giờ, cần 10-15 phút một tuần cho 15-20 chậu. Lan không quá khó trồng và cũng không cần phải có hoa tay green thumbs như nhiều người đã nghĩ, chỉ cần sự quyết tâm và chú trọng tới những điểm trong các bài chỉ dẫn sau đây là đủ.
Trong muôn ngàn loài hoa đua hương khoe sắc mà thượng đế đã ban cho loài người chúng ta, hoa lan được người Á Châu liệt vào hàng Vương giả chi hoa. Hoa lan Disa uniflora được mệnh danh là: Hoa của thượng đế (The flower of the God), lan Cattleya là Nữ hoàng của loài hoa (Queen of the flowers), hoa lan Angraecum sesquipedale là: Ngôi sao của thành Bê-lem (The star of Bethlehem), lan Brassavola nodosa: giai nhân trong bóng đêm.
Lan Brassavola nodosaViệt nam, quê hương của chúng ta cũng là quê hương của khoảng trên 140 loại hoa lan chia ra chừng 1000 giống nguyên thủy. Những cây lan này sinh sản tại các vùng rừng, núi Cao bằng, Cha pa, Lào Kay, Huế, Hải Vân, Quy nhơn, Kontum, Pleiku, Ban mê thuột, Phan Rang, Đà lạt, Di linh v.v…
Trong số lan của Việt Nam có rất nhiều cây hiếm quý và có những cây trước kia chỉ thấy mọc ở Việt nam như cây lan nữ hài Paphiopedilum delenati, cánh trắng môi hồng do một binh sĩ người Pháp đã tìm thấy ở miền thượng du Bắc Việt vào năm 1913 sau đó người ta cũng tìm thấy tại Trung Việt vào năm 1922 và rồi mãi cho đến năm 1990-1991 mới tìm lại được ở Khánh hòa.
Gần 50 năm tuyệt tích, cây lan này đã làm giầu cho một số nhà trồng tỉa người Âu, đã cấy giống, gieo hạt, và bán ra với một giá khá cao.
Joao de Loureiro, một nhà truyền giáo đã tìm thấy cây lan Giáng hương quế Aerides odorata tại một vùng gần Huế và sau khi đi khắp một vòng Đông Nam Á châu, ông đã viết một một cuốn sách về các loại lan Aerides vào năm 1790.
Một cây lan loại này giá bán tại Luân Đôn vào năm 1855 là 89 đồng Anh kim khoảng 225 Mỹ kim và một cây Vanda, giáo sư Phạm Hoàng Hộ gọi là Huệ Đà, nhưng những nhà chơi lan ở trong nước lại phiên âm là Vân Đa giá bán vào năm 1885 là 180 Anh kim, khoảng 450 Mỹ kim.
Hoa lan Cattleya màu vàng – Queen of the flowersNhiều cây lan Việt Nam, hoa thực là xinh đẹp, hương thơm ngào ngạt mà tên gọi lại thanh nhã, mỹ miều như: Bạch ngọc, Giáng xuân, Hạc đính, Long tu, Giã hạc, Kim điệp, Bạch phượng, Hoàng thảo, Ngọc điểm v.v… Trong văn học chẳng thiếu gì chuyện về lan như Hương cuội trong Vang bóng một thời của nhà văn Nguyễn Tuân và những chuyện tìm lan của nhà văn Nhất Linh.
Trước năm 1975 du khách lên Đà lạt, Lâm Đồng chỉ cần bỏ ra vài chục bạc là đã có những giò lan xinh đẹp. Tại khu chợ chim, chợ chó đường Hàm nghi thường được gọi là chợ Cũ cũng là nơi bầy bán những cụm lan rừng vào dịp cuối năm.
Những buổi sáng mùa xuân, khách bộ hành khi đi qua con đường Duy Tân cây dài bóng mát, công viên Gia Long đầy rẫy những cây sao, tàn cao sừng sững, hoặc con đường Nguyễn bỉnh Khiêm cây xanh rợp bóng, thường thấy hương thơm như mùi trầm, mùi quế phảng phất đâu đây.
Đó là huơng thơm của những chùm hoa Rhynchostylis gigantea trắng lấm tấm tím, đỏ mọc trên những hàng cây me, cây dầu, cây sao mà giới bình dân ở Saigon đã đặt cho một cái tên chẳng thanh tao chút nào: lan me, lan đuôi chồn mà quên hẳn cái tên đẹp đẽ và văn vẻ là Ngọc điểm đã có từ xưa.
Hiện nay trong nước có nhiều người sưu tầm và nghiên cứu về lan và cũng có những công ty trồng lan để bán và xuất cảng nhưng với số vốn hạn hẹp, kỹ thuật thô sơ nên không thể nào cạnh tranh nổi với các nước láng giềng đã có mặt trên thị trường quốc tế từ lâu.
Ngoài ra do quy luật quốc tế bảo vệ các giống vật và cây hiếm quý do quy ước Convention on International Trade in Endangered Species of wild fauna and flora (CITIES) đã cấm mua bán một số đặc sản, cho nên hoa lan cuả Việt nam khó lòng được chính thức nhập cảng vào Hoa kỳ.
Trong khi đó nhiều con buôn đã thuê người vào rừng thẳm, núi cao để kiếm lan bất kỳ lớn, nhỏ quý giá hay không đem bán cho các lái buôn Thái lan hoặc Đài loan với giá rẻ mạt: 2 Mỹ kim một kí lô. Những cụm lan rừng vẫn được bầy bán tại các hội hoa lan tại Santa Barbara hay South Coast Plaza có thể là xuất xứ tại Việt Nam.
Cymbidium ensifoliumNói về hoa lan, phải nói tới người Trung hoa. Tiếng LAN, chúng ta đã vay mượn của họ. Người Tầu đã biết về lan vào khoảng 2500 về trước. Thời đại của đức Khổng tử 551-479 trước thiên chúa giáng sinh đã có câu “Dâng hương lan cho chúa”.
Năm dương lịch thứ 300 họ đã biết tới hoa lan đất Tử cán, Cymbidium ensifolium. Việt Nam cũng có thứ lan này, tên là Thanh ngọc, mọc từng bụi thấp nhỏ, lá dài chừng 40-50 phân, hoa xanh nhạt hoặc nâu nhạt, hương thơm ngát thường tìm thấy ở Lào kay, Hà nam, Kontum, Gia ray và Lâm đồng, giá bán tại Hoa kỳ độ 30-40$ một chậu nhỏ. Năm thứ 1000 người Trung hoa đã có sách nói về khoảng 1000 giống lan và chỉ dẫn cách trồng.
Giới Thiệu Về Cá Hòa Lan
Giới thiệu thông tin chung cá hòa lan, cá mún
– Tên khoa học: Xiphophorus spp.
– Bộ: Cyprinodontiformes (bộ cá sóc)
– Họ: Poeciliidae (họ cá khổng tước)
– Thuộc loài: Cá hòa lan trên thị trường rất hiếm gặp dạng thuần chủng, cá có nguồn gốc từ các loài: Xiphophorus maculatus, Xiphophorus variatus, Xiphophorus xiphidium
– Tên tiếng Việt khác: Hột lựu; Mún lùn; Hồng mi.
– Tên tiếng Anh khác: Variable platy; Sunset platy; Red balloon platy.
– Tên tiếng anh: cá hoà lan đuôi lửa là: Platy Pintail Red Wagtail
– Nguồn gốc: Cá nhập nội từ thập niên 70, đến thập niên 90 có thêm hạt lựu và nhiều dạng màu mới, sau năm 2000 có thêm hồng mi. Cá hiện đã sản xuất giống phổ biến trong nước.
– Nguồn cá: Sản xuất nội địa
– Số kiểu hình: 6
Đặc điểm sinh học cá hòa lan, cá mún– Phân bố: Mexico và trung Mỹ
– Chiều dài cá (cm): 6 – 9
– Nhiệt độ nước (C): 18 – 25
– Độ cứng nước (dH): 15 – 30
– Độ pH: 7,0 – 8,3
– Tính ăn: Ăn tạp
– Tầng nước ở: Mọi tầng nước
– Sinh sản: Cá đẻ con, mắn đẻ và dễ sinh sản. Cá thường bị tạp giao vô tình hay cố ý giữa các loài trong giống
Kỹ thuật nuôi và chăm sóc cá hòa lan, cá mún– Thể tích bể nuôi (L): 100 (L)
– Hình thức nuôi: Ghép
– Nuôi trong hồ rong: Có
– Yêu cầu ánh sáng: Vừa
– Yêu cầu lọc nước: Trung bình
– Yêu cầu sục khí: Trung bình
– Loại thức ăn: Thực vật, trùng chỉ, giáp xác, côn trùng, thức ăn viên …
– Cá nuôi trong bể thủy sinh với các loài cá khác
Thị trường mua bán, giá bán cá hòa lan, cá mún– Giá trung bình (VND/con): 2500
– Giá bán min – max (VND/con): 2000 – 10000
– Mức độ ưa chuộng: Trung bình
– Mức độ phổ biến: Nhiều
Giới Thiệu Về Địa Lan Kiếm
Về hình thái bên ngoài, địa lan kiếm Cymbidium là những loài thân thảo, đa niên, đẻ nhánh hàng năm tạo thành những bụi nhỏ.
Có loài rễ mọc bám trên vỏ cây, mặt đất (bì sinh hay phụ sinh); có loài rễ ăn sâu trong bọng cây, trong đất mùn (địa sinh hay thực sinh). Rễ mới thường chỉ mọc ở cây con, cây mẹ khó ra rễ mới mà chỉ thấy phân nhánh từ củ rễ.
Thân ngầm của chúng (căn hành) thường ngắn, nối những củ lan với nhau. Các củ lan thực chất là những cành ngắn của căn hành. Củ già, khi bị tách khỏi căn hành cũ, có thể mọc ra đoạn căn hành mới, từ đó mọc lên những cây con. Do đó người ta xếp Cymbidium vào nhóm lan đa thân (sympodial).
Củ lan (giả hành) thường có dạng con quay hay dạng hột xoài, đường kính từ 1 cm đến 15 cm, củ thường tươi và được bọc trong các bẹ lá.
Lá thường có hai dạng: dạng vảy đính theo một đoạn căn hành và dạng thực đính trên giả hành. Lá thực thường có cuống lá, giữa bẹ lá và cuống lá có một tầng phân cách. Khi phiến lá rụng, vẫn còn đoạn bẹ ôm lấy giả hành. Vài loài không có cuống lá.
Tùy theo từng loài mà phiến lá rất khác nhau, có gân dọc nổi rõ hay chìm trong thịt lá. Một số loài ít chịu rợp có phiến lá màu xanh vàng, còn lại thường là xanh đậm. Bản lá và độ dày của lá thay đổi tùy theo từng loài: các loài sống ở trảng trống có lá hẹp và dày hơn các loài ưa bóng rợp. Lá có dạng dải, dạng mũi mác, dạng phiến. Đầu lá nhọn hay chia thành 2 thùy. Kích thước của bản lá biến động từ 0,5 cm đến 6 cm. Chiều dài lá thay đổi từ 10 cm đến 150 cm.
Chồi hoa thường xuất hiện bên dưới giả hành, trong các nách lá, tách các bẹ già, đâm ra bên ngoài. Thông thường, mỗi giả hành chỉ cho hoa một lần. Chồi hoa thường xuất hiện đồng thời với chồi thân, những chồi hoa no tròn hơn, còn chồi thân hơi dẹp. Các lá đầu tiên ở chồi thân mọc đâm ra 2 phía hình đuôi cá, còn ở chồi hoa các lá bao hoa luôn ôm chặt quanh phát hoa.
Chồi hoa và chồi thân phát triển đồng thời
a/ Chồi hoa
b/ Chồi thân
Cọng phát hoa không phân nhánh, dựng đứng hay buông thõng. Chiều dài của phát hoa từ 10 đến hơn 100 cm. Cành hoa mang từ vài đến vài chục búp hoa xếp luôn phiên theo đường xoắn ốc. Búp hoa khi đã đủ lớn, bắt đầu dang xa khỏi cọng hoa, xoay nửa vòng tròn để đưa cánh môi xuống dưới rồi bắt đầu nở. Thoạt nhìn, hoa Cymbidium có 5 cánhgần giống nhau, thực ra chỉ có 2 cánh hoa ở bên trong, còn lại là 3 lá đài ở bên ngoài, có cấu trúc và màu sắc giống cánh hoa. Cánh hoa thứ 3 chuyên hóa thành cánh môi, màu sắc rực rỡ hơn, xẻ thành 3 thùy tạo ra dạng nửa hình ống. 2 thùy bên ôm lấy trụ, thùy thứ 3 có dạng bầu hay nhọn tạo thành hình đáy thuyền, làm chỗ đậu cho côn trùng khi đến hút mật và thụ phấn cho hoa. Giữa cánh môi có 2 gờ dọc song song màu vàng. Tận cùng bên trong có dĩa mật và đôi khi có những tuyến tiết mùi hương.
Hình thái ngoài và cấu trúc hoa Cymbidium
Hoa Cymbidium lưỡng tính, nhị đực và nhụy cái cùng gắn chung trên một trụ nhị – nhụy (hay trục hợpnhụy) hình bán trụ hơi cong về phía trước. Nhị ở trên cùng, mang 2 khối phấn màu vàng, có gót dính như keo. Khối phấn được đậy bởi một nắp màu trắng ngà dễ mở rời. Hộc chứa phấn khối của trục hợp nhụy cách với nuốm nhụy bởi một cái gờ (mỏ) nổi lên. Cấu trúc này bắt buộc trong tự nhiên hoa Cymbidium chỉ thụ phấn được nhờ côn trùng.
Sau khi thụ phấn, hoa xoay dần về vị trí cũ, bầu noãn phình lên tạo thành quả. Quả lan là một nang có 3 góc, bên trong có chứa hàng trăm ngàn hạt. Khi chín, quả mở theo 3 đường góc và gieo vào không khí những hạt như bụi phấn màu vàng lụa. Khi rơi vào nơi có điều kiện ẩm độ, ánh sáng thích hợp và có nấm cộng sinh tham gia, hạt sẽ nẩy mầm phát triển thành cây mới…
LỊCH SỬ TẠO GIỐNG
Số lượng giống lai tự nhiên – đã được thu thập – rất phong phú. Con lai tự nhiên có thể là kết quả của 2 loài giao phấn với nhau hoặc của các dòng trong cùng một loài giao phấn nhờ côn trùng. Điều kiện để một phép lai có thể xảy ra trong tự nhiên là 2 cá thể phải giống nhau về mùa hoa, cùng khu phân bố và cùng kích thước hoa. Điển hình nhất là cây lai Hồng Hoàng, con lai tự nhiên giữa cây Hồng lan (Cym. insigne) và cây Hoàng lan (Cym. giganteum). Bản thân nhóm Hồng Hoàng có rất nhiều dạng khác nhau về màu sắc cánh hoa và sắc tố đỏ trên cánh môi. Tuy nhiên, phải nhờ đến bàn tay con người, những phép lai giữa các loài rất cách biệt nhau mới có thể thực hiện. Việc tạo giống Cymbidium phát triển theo tiến trình thu thập giống hoang dại, nhờ có sự hỗ trợ của những tiến bộ sinh học, đã đạt được những kết quả không ngờ.
Khoảng đầu thế kỷ này, một số lan rừng đã được thu thập từ các vùng rừng nhiệt đới đưa về trồng ở châu Âu. Từ những giống hoang dại đó, những phép lai đã được thực hiện. Mục tiêu của những phép lai này là tạo được những giống có đặc tính kinh tế và giá trị thẩm mỹ cao như hoa nhiều, lớn, bền, màu sắc sặc sỡ. Đó cũng chính là lý do tại sao Cymbidium không phải là cây nguyên sản ở châu Âu nhưng các giống lai được nuôi trồng để cắt cành ở đây lại có số lượng rất lớn so với các châu lục khác.
Cây Cymbidium lai đầu tiên xuất hiện năm 1889 là cây Cym. eburneolowianum (Cym. eburneum x Cym.lowianum). Trong 20 năm tiếp theo, chỉ xuất hiện thêm 14 con lai nữa nhưng chúng không có giá trị cao lắm. Trong những năm đầu của thế kỷ 20, người ta tìm thấy ở Miến Điện và Đông Dương nhiều loài giá trị, nhất làCym. Parishii, Cym. insigne, Cym. erythrostylum (Bạch hồng) có màu sắc từ trắng đến hồng, chúng đã đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các con lai đẹp sau này.
Cym. hookerianum và Cym. lowianum đã được dùng để tạo ra những giống hoa màu xanh. Cym. eburneum (Bạch lan) và Cym. insigne (Hồng lan) đã cho ra các giống màu trắng và màu hồng. Cym. traceyanum cho ra các giống màu vàng. Cym. ansonii cho ra những giống màu đỏ và màu hồng. Cym. Parishiiđược dùng để tạo ra những giống có cánh môi đỏ thắm như Cymbidium Miretta.
Những công trình lai tạo, chọn giống Cymbidium vào đầu thế kỷ này đáng kể nhất là của H. G. Alexander, đã cho ra đời cây lai Cym. Alexanderi Westonbirt (Cym. eburneolowianum x Cym. insigne). Cây này cho đến nay vẫn giữ một vị trí quan trọng trong việc tạo ra các giống mới màu trắng, hồng, vàng, xanh, nhất là những giống ra hoa vào mùa thu và mùa đông. Cùng thời gian này, còn có cây lai Cym. pauwelsii (Cym. insigne x Cym. lowianum), là cây đầu dòng để tạo ra những giống có phát hoa lớn và sức phát triển mạnh như Cym. Babylon (Cym. Olympus x Cym. Pauwelsii). Đến lượt mình, Cym. Babylon lại là cây đầu dòng thông dụng để tạo ra những giống mới có màu sắc rực rỡ.
Những năm gần đây có khuynh hướng tạo ra những giống Cymbidium có màu sắc tinh khiết, không có sắc tố đỏ cả trên cánh môi. Do đó, sẽ có những giống chỉ có màu vàng, xanh hay trắng. Phương pháp để đạt kết quả này là hồi giao nhiều lần với Cym. lowianum var. Concolor (Thanh ngọc). Một hướng lai tạo khác không kém lý thú là tạo ra những giống với nhiều màu sắc rực rỡ phối hợp với nhau: màu 2 cánh hoa và cánh môi khác với màu của 3 lá đài, hoặc cánh hoa có nhiều màu tạo thành các đốm khảm. Về hình dạng hoa thì ngày càng có những giống lai mới có cánh hoa và lá đài tròn , hoa kín và tròn. Hoa nhiều trên một cành và độ bền của hoa cắt cành cũng là những đặc điểm được quan tâm khi chọn tạo giống.
Một nhóm Cymbidium khác có kích thước thân, lá, hoa nhỏ hơn, gọi chung là Cymbidium miniature, cũng được lai tạo ra và chiếm một vị trí đáng kể cạnh nhóm hoa lớn, do chúng thích hợp với điều kiện nhà ở ngày càng chật hẹp hiện nay. Những cây đầu dòng để tạo giống trong nhóm này có thể kể Cym. Devonianum (Gấm ngũ hồ); Cym. ensifolium (Mặc lan); Cym. Pumilum và Cym. tigrinum. Cym. Devonianum cho ra những giống có cành hoa buông thõng, màu xanh, vàng và nâu, cánh môi có bệt đỏ đậm; Cym. ensifolium được khai thác ở 2 đặc tính di truyền là mùa hoa (cuối hè và thu) và hương thơm. Cym. tigrinum cho ra những con lai nở hoa mùa xuân, cây thấp lùn, lá ngắn, giả hành nhỏ, hoa màu xanh đến vàng. Nhưng đáng kể nhất vẫn là Cym. Pumilumđã cho ra nhiều giống miniature màu sắc phong phú. Ưư điểm của nhóm hoa nhỏ này là yêu cầu không khắt khe lắm về nhiệt độ thấp để phân hóa hoa nên có thể nuôi trồng rộng rãi hơn ở nước ta.
Giữa những nhóm hoa lớn và hoa nhỏ cũng đã có những phép lai, tạo ra những giống Cymbidium kết hợp được đặc điểm của cả 2 nhóm: hoa lớn trung bình, số lượng hoa trên một cánh nhiều, dễ trồng trọt và năng suất hoa cao.
Việc lai tạo giống không ngừng lại ở việc thụ phấn, gieo hạt đơn giản mà còn dùng đến những kỹ thuật sinh học hiện đại để tạo ra nhiều giống đa bội… Cymbidium cũng là chi đầu tiên của hoa lan được áp dụng thành công phương pháp cấy đỉnh sinh trưởng và nhân giống vô tính hàng loạt trong ống nghiệm để có số lượng cây giống lớn, đồng nhất và sạch bệnh trong một thời gian tương đối ngắn.
Do đó, muốn phát triển việc nuôi trồng Cymbidium ở quy mô lớn hoặc để tạo ra những giống mới, cần thiết phải có một phòng thí nghiệm với đầy đủ hóa chất, thiết bị nhân cấy cây trong ống nghiệm. Đây là một bộ phận không thể thiếu được của bất kỳ cơ sở trồng lan nào trên thế giới.
CYMBIDIUM TỰ NHIÊN
Theo những kết quả điều tra định loại trước đây chi Cymbidium trong cả nước ta có khoảng 12 loài. Về mặt hình thái, có thể nói tất cả những loài này đã và đang được nuôi trồng tại Đà Lạt. Qua việc khảo sát trong tự nhiên, các loài này đều có khu phân bố với những qui luật chi phối đặc trưng, có số lượng cá thể khá lớn. Từng loài có các yếu tố cách ly rõ rệt với loài khác. Từ những khác biệt về cách sống, mùa hoa, màu sắc… cho đến những khác biệt về cơ quan sinh sản… đã giúp cho việc hình thành và ổn định các loài Cymbidium tự nhiên trên các vùng rừng núi Lâm Đồng – Đà Lạt.
Có những cá thể hay dòng vô tính của một hay một số biến chủng nào đó trong tự nhiên đã được sưu tập nuôi giữ, nhưng chưa có thể xem xét chúng nằm ở bậc phân loại nào trong hệ thống phân loại học thực vật. Cũng còn có những biến chủng giống nhau hay khác nhau về nhiều mặt, chịu tác động của những cơ chế cách ly độc đáo, nhưng hiện nay chưa thể tìm gặp được khu phân bố vì thảm rừng đã bị tàn phá nặng nề. Đó cũng là một trong những khó khăn, cần có điều kiện, thời gian và sự kiên trì của những người quan tâm, yêu thích mới có thể giải quyết được.
Giới thiệu về những loài Cymbidium tự nhiên, chúng tôi có hoài bão giúp ích phần nào cho những ai ham thích sưu tập lan rừng. Chúng tôi cố gắng mô tả các đặc điểm phân loại và môi sinh của chúng một cách chính xác nhất trong chừng mực những tài liệu thu thập được cũng như những quan sát thực tế cho phép. Qua đó, chúng tôi hy vọng người trồng lan có thể có thêm tài liệu về phả hệ của các giống lan mình đang trồng, từ đó có những biện pháp kỹ thuật đáp ứng chính xác hơn yêu cầu sinh lý, sinh thái của từng giống nhằm đạt được năng suất hoa cao nhất.
Cập nhật thông tin chi tiết về Giới Thiệu Về Hoa Lan trên website Duhocaustralia.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!