Xu Hướng 9/2023 # Cây Núc Nác Trị Bệnh Gì Những Cách Dùng Đúng Nhất Nên Biết # Top 17 Xem Nhiều | Duhocaustralia.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Cây Núc Nác Trị Bệnh Gì Những Cách Dùng Đúng Nhất Nên Biết # Top 17 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Cây Núc Nác Trị Bệnh Gì Những Cách Dùng Đúng Nhất Nên Biết được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Duhocaustralia.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Núc nác có tên khoa học: Oroxylum indicum (L.) Kurz. Tên khác: Nam hoàng bá, ngúc ngác, mộc hồ điệp, may ca, phăc ca (Tày), co ca liên (Thái), ngòng pắng điằng (Dao), p’sờ lụng (K’Ho). Cây nhỡ, cao 8-10 m, có khi hơn. Thân nhẵn, ít phân cành, có những sẹo to do lá rụng để lại. vỏ cây màu xám tro, mặt trong màu vàng nhạt.

Tên gọi khác: Nam hoàng bá, Hoàng bá nam, Thiều tầng chỉ, Thiên trương chi, Bạch ngọc nhi, Triển giản, So đo thuyền, Lim may, Mộc hồ điệp, Ung ca

Tên khoa học:Oroxylum indicum (L.) Kurz

Họ: Núc nác – Bignoniaceae

Núc nác

Núc nác hoặc còn gọi là Mộc hồ điệp, là một vị thuốc mọc hoang ở rất nhiều ở vùng trên nước ta. Vị thuốc này có tác dụng kháng khuẩn, kháng viêm, chống dị ứng và khiến giảm tính thấm của một số màng mao mạch.

Hình ảnh cây Núc nác

Mô tả dược liệu Núc nác 1. Đặc điểm sinh thái

Núc nác là cây thân nhỡ, cao khoảng 5 – 13 mét, thân nhẵn, nhỏ, ít phân cành. Vỏ cây màu xám tro, bên trong vỏ màu vàng.

Lá Núc nác mọc đối, xẻ 2 – 3 lần hình lông chim, mỗi lá dài khoảng 1.5 m, thường tập trung ở ngọn cây. Lá chét có chiều dài không bằng nhau, hình trái xoan, mép lá nguyên, không có răng cưa.

Cụm hoa Núc nác thường mọc ở những cành trên ngọn cây. Hoa to có màu nâu sẫm. Đài hoa hình ống, dày, cứng, thường có 5 khía nông. Tràng hoa chia thành 2 môi, gồm 5 nhị, có nhiều lông phủ cả hai mặt. Hoa nở về đêm, thụ phấn nhờ vào dơi. Hoa cũng như quả ra quanh năm theo từng đợt.

Núc nác ra hòa vào mùa hạ. Quả nang dài, mỏng dài khoảng 50 – 60 cm, có hai mặt lồi, lưng có cạnh chạy dọc theo chiều dài quả. Hạt dẹt có cánh mỏng, trên hạt có khá nhiều đường gân nhỏ đi về nhiều hướng riêng biệt. Hạt có kích cỡ khoảng 2 cm cũng như rộng khoảng 3 cm, trông hao hao như cánh bướm màu trắng nhạt.

2. Cấu trúc sử dụng

Vỏ và hạt (Mộc hồ điệp) được dùng để khiến cho thuốc.

3. Phân bốMô tả dược liệu Núc nác

Núc nác được tìm thấy ở Xri Lanca, Ấn Độ, miền Nam Trung Quốc, những nước Đông Nam Á, Philippin, những đảo Xêlép cũng như Timo.

Ở nước ra, Núc nác thường mọc hoang ở vùng đồi núi, rừng thường xanh, những quần hệ thứ sinh, cũng như các trung tâm ẩm ướt ở độ cao khoảng 900 m. Những địa chỉ thường tìm thấy Núc nác như Hà Giang, Quảng Bình, Quảng Nam, Điện Biện, tại vùng Tây Bắc, Yên Bái, Tuyên Quang, Hòa Bình, Thanh Hóa.

Hiện tại Núc nác cũng được gây ra trồng ở rất nhiều trung tâm để khiến cảnh và dùng dược liệu. Cây được trồng bằng hạt hay cành vào mùa xuân.

4. Thu hái – Sơ chế

Thu hái quả Núc nác lúc quả chín bước qua màu nâu vào mùa thu hoặc mùa đông. Phơi quả Núc nác ở ngoài nắng cho đến khi vỏ quả nứt ra, tách hạt phần hạt, tiếp tục phơi hạt cho tới khi khô hẳn. Lúc dùng có thể trích muối ăn với liều lượng 10 kg Mộc hồ điệp, 400 g muối ăn, pha với nước sôi vừa phải. Sử dụng nước muối này ngâm tẩm Mộc hồ điệp trong 30 phút, rồi dùng sao trên lửa nhỏ cho đến khi hạt có màu đen.

Vỏ Núc nác có thể thu hái quanh năm. Khi quan trọng có thể đẽo lấy vỏ cây, thái phiến dài khoảng 2 – 5 cm, sấy khô hay phơi khô, bảo quản quản dùng dần. Khi cần dùng để nguyên dược liệu hoặc sao vàng với mửa nhỏ.

Vỏ thân Núc nác có chứa một lượng nhỏ Tanin, Ancaloit cũng như đưa xuất Flavonoit ở dạng tự do.

Mộc hồ điệp (hạt) có chứa một chất kiềm màu vàng cũng như 80.40% dầu béo bao gồm Stearic, Axit Oleic, Axit Panmitic và Axit Lignoxeric. Không chỉ thế, hạt cũng có thể có chứa Ellagic Axit.

Vỏ quả Núc nác có chứa Biochanin-A, Chrysin, Baicalein và Acid Ellagic, Oroxylin A, Chrysin, Triterpene, Axit Cacboxylic cũng như Axit Ursolic.

5. Bảo quản dược liệu

Núc nác được nhân giống dễ dàng bằng hạt hoặc bằng cành. Thời vụ gieo trồng vào mùa. xuân. Hạt chín được thu vào lúc quả chuyển sang màu vàng. Nếu để quả quá già tự tách hạt sẽ văng ra và bay theo gió. Hạt phơi xong đem phơi khô và bảo quản đến mùa xuân năm sau thì gieo trong vườn ươm, sau đó đánh cây con đi trồng. Nếu không cần nhiều cây giống, dùng cách giâm cành. Chỉ cần cắm cành xuống đất và giữ ẩm là được. Còn có thể thu gom cây con mọc từ hạt để trồng.

Núc nác không kén đất nhưng ưa nơi ẩm, mát. Khi trồng, đào hố 40x40x40 cm khoảng cách 2×2 m, bón lót ít phân chuồng, đặt cây và giữ ẩm 7 – 10 ngày. Có thể trồng xen với các cây lưu niên khác. Cây không cần chăm sóc đặc biệt.’

Thành phần hóa học núc nác

Bảo quản vị thuốc Núc nác ở cơ sở thoáng gió, khô ráo. Đôi khi có thể mang dược liệu phơi nắng để tránh ẩm mốc cũng như côn trùng.

6. Thành phần hóa học

7. Cách trồng

Vị thuốc Núc nác

Vị thuốc Hoàng bá nam (vỏ cây Núc nác)

1. Tính vị

Núc nác vị đắng, tính ngọt.

2. Quy kinh

Quy vào 2 kinh Tỳ cũng như Bàng quang.

3. Tác dụng dược lý

Vỏ Núc nác được cho là có tác dụng chống lại dị ứng, khiến nâng cao tình trạng sức khỏe và giúp cơ thể chống lại một số tác nhân gây hại. Vỏ thân cũng có tác dụng kháng khuẩn, kháng viêm và làm cho giảm tính thấm của màng mao mạch (thí nghiệm trên chuột).

Ở nước ta, Núc nác được sản xuất thành dược liệu có tên Nunaxin dưới dạng viên 0.25 g. Thuốc này thường được sử dụng để chữa mề đay mẩn ngứa, vẩy nến, hen phế quản nhẹ ở trung bình ở trẻ em. Sản phẩm tuyệt đối không chỉ định cho các tình trạng dị ứng nặng và cấp diễn.

Mộc hồ điệp có công dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, lợi cho hầu họng, có thể giảm đau nhức, chống ho. Bởi thế, thường sử dụng để điều trị ho mạn tính, viêm họng cấp tính, khan cổ, ho gà, đau sườn, đau tại vùng thượng vị, viêm phế quản, suy giảm khả năng gan cũng như đau dạ dày. Không chỉ, có thể tán hạt thành bột để rắc, thoa, chữa trị Không chỉ vậy các vết thương lở loét, mụn nhọt.

Vỏ thân có khả năng thanh nhiệt, lợi không tốt thường được sử dụng để chữa bệnh viêm gan, vàng da, viêm bàng quang, viêm họng, khô họng, sởi ban trái ở trẻ em. Không chỉ vậy, vỏ cũng được sử dụng để chữa trị dị ứng sơn, vẩy nến, hen phế quản ở trẻ em.

Ở Ấn Độ, vỏ Núc nác còn được sử dụng để chữa trị tiêu chảy, kiết lỵ. Vỏ thân sử dụng làm cho thuốc bổ đắng và chữa phong tê thấp cấp tính. Quả Núc nác non có khả năng dùng chữa bệnh rối loạn tiêu hóa. Hạt dùng chữa trị khi bị rắn cắn.

1. Điều trị lở loét da, ngứa da, bệnh tổ đỉa, giang mai ngoài da

4. Thủ thuật sử dụng – Liều lượng

2. Trị viêm đường tiết niệu, tiểu buốt ra máu

kỹ thuật dùng: Núc nác có khả năng nấu thành cao hoặc bào chế thành dạng bột. Không chỉ vậy, có thể sắc nước để sử dụng rửa Không chỉ vậy da.

Bài thuốc dùng vị thuốc Núc nác

Bài thuốc thứ hai:

dùng Nam hoàng bá cũng như Khúc khắc, mỗi vị 30 g sắc thành thuốc, dùng uống mỗi ngày.

dùng Nam hoàng bá, Mã đề, rễ Cỏ tranh, mỗi vị một nắm tay, sắc thành thuốc uống mỗi ngày.

Bài thuốc thứ nhất:

dùng Nam hoàng bá 16g, Cối xay 16g, Sài hồ 12 g, Chó đẻ răng cưa 16g, Thành bì 12g, Tam thất 10g, Cơm rượu 16 g, Xa kinh phí 12 g, rễ Cỏ tranh 16g, Cam thảo 12 g, sắc thành thuốc, chia thành 2 lần uống trong ngày. Mỗi càng ngày càng thang thuốc.

dùng Hoàng bá nam 16g, Chi tử (Hạt dành), Đan bì, Bạch thược, Nhân trần, Xa kinh phí, Cam thảo mỗi vị 12g, Sài Hồ 16g, Cọ nhọ nồi 16g sắc thành thuốc uống, chia thành 2 lần uống trong ngày. Mỗi ngày càng thang.

4. Trị bệnh ho mạn tính

Sử 5 – 10 g Mộc hồ điệp sắc thành nước hoặc tán thành bột, sử dụng uống.

5. Trị bệnh lở loét da do dị ứng sơn

dùng Hoàng bá nam nấu thành cao, sử dụng uống cũng như bôi vào chỗ lở loét.

6. Chữa đau dạ dày

7. Điều trị viêm da dị ứng, dị ứng da, mụn nhọt, mề đay mẩn ngứa

Bài thuốc thứ nhất:

sử dụng vỏ Núc nác sao vàng 16g, Kim ngân hoa 16g, ngăn ngừa phong 10 g, hạt Dành dành 10g, Sài hồ, Sài đất, lá Cơm rượu mỗi vị 16g, Uất kim, Cam thảo mỗi vị 10g, sắc thành thuốc chia thành 2 lần uống trong ngày.

Bài thuốc thứ hai:

dùng vỏ Núc nác 16g, Lá Đơn tướng quân, Ké đầu ngựa 14g, Kim ngân hoa 16g, Tô mộc, Trần bì mội vị 10g, Cú hoa 12g, sắc thành thuốc chia 2 lần uống trong ngày.

8. Chữa bệnh ban trái, sởi ở trẻ em

dùng Hoàng bá nam 6g, Kim ngân hoa, Mã đề, Hồng hoa Bạch, Sài hồ, Đương quy mỗi vị 4g, Liên kiều, Kinh giới mỗi vị 6g, Sài đất 5g sắc thành thuốc chia 3 – 4 lần uống trong ngày, mỗi ngày 1 thang.

9. Bài thuốc ngâm rửa khám một số căn bệnh lý ngoài da

sử dụng 50g Hoàng bá Nam, lá Kinh giới 30g, lá Đinh lăng 30g sắc thành nước dùng rửa hoặc thoa ngoài da, hàng ngày 2 lần.

10. Chữa bệnh lỵ

Bài thuốc thứ nhất: dùng Hoàng bá nam, Khổ sâm, Hoa hòe (sao đen), Ngũ gia bì, Cỏ ngũ sắc mỗi vị 16 g, Búp ổi, Bạch truật, Hoàng đằng, Chích cam thảo mỗi vị 12 g, Đinh lăng, Cỏ sữa mỗi vị 20g sắc thành thuốc, sử dụng uống 2 lần trong ngày.

11. Trị bệnh vú có cục sưng đau, rắn cắn

sử dụng Hoàng bá nam, Hương nhu, Táo nhân (sao đen), Đinh lăng, Huyên sâm, Cát căn mỗi vị 16g, Trinh nữ hoàng cung 6g, Uất kim 10g, Hoa hòe (sao vàng) 20 g, Hoàng kỳ 2g, Xuyên khung, Tam thất, Xương Bồ, Chích cam thảo mỗi vị 12g, mang sắc thành thuốc sử dụng uống 1 ngày 2 lần. Dùng liên tục trong 10 – 30 ngày là một phác đồ.

12. Thăm khám phong hàn, tam tiêu tích nhiệt

13. Điều trị liệt dương do viêm nhiễm sỏi tiết niệu lâu ngày vùng sinh dục

dùng Hoàng bá nam, Mạch môn, Ý dĩ, Kỷ tử, Thục địa, Huyết đằng, Hà thủ ô mỗi vị 12 g kết hợp với Trâu cổ, Phá cổ chỉ mỗi vị 8g sắc thành thuốc sử dụng uống trong ngày.

14. Chữa thấp khớp sưng đau: Vỏ núc nác, dây đau xương, thiên niên kiện, cây vòi voi, độc hoạt, phòng kỷ, rê bưởi bung, ngu gia bì chân chim, độc lực, rễ cỏ xước, kê huyết đằng, rễ trinh nữ, quế chi. Tất cả các vị phơi khô. Trừ quế chi, thiên niên kiện, độc hoạt, còn các vị khác đều sao vàng và để ngập nước trên dược liệu 20 cm. Sắc với nước hai lần, lần thứ nhất trong 6 giờ, lần thứ hau 3 giờ. Gộp 2 nước lại, lọc, tiếp tục sắc, khi gần được (trước 40 phút) cho quế, thiên niên kiện và độc hoạt vào. Cô đến khi đạt tỉ lệ 1:1 so với dược liệu. Pha cao với siro đơn với tỉ lệ 10%. Ngày uống 200 -250 ml chia 2 lần. Chống chỉ định đối với phụ nữ có thai

Nơi mua bán vị thuốc Núc nác đạt uy tín ở đâu?

Trước thực trạng thuốc đông dược không chất lượng, nguồn gốc không rõ ràng,… Xuất hiện tràn lan trên thị trường, khiến cho ảnh hưởng tới hiệu quả điều trị cũng như ảnh hưởng đến tình huống sức khỏe của người chẳng may mắc bệnh. Việc lựa chọn những địa chỉ uy tín để mua thuốc đông dược là quá quan trọng và quan trọng. Vậy khách hàng có thể mua vị thuốc Núc nác ở đâu?

Núc nác là vị thuốc nam quý, được dùng rộng rãi trong YHCT. Bây giờ hầu hết các cửa hàng thuốc đông dược, phòng khám đa khoa đông y, phòng tránh chẩn chữa trị YHCT… Đều có bán vị thuốc này. Thế nhưng người mua nên chọn một số dịch vụ y tế có uy tín, bảo đảm uy tín, có giấy phép hoạt động để mua được vị thuốc đạt chất lượng.

Nếu có thắc mắc hãy liên hệ với chúng tôi qua các thông tin bên dưới chúng tôi sẵn sàng tư vấn hoàn toàn miễn phí cho sức khoẻ của bạn

Núc nác tính hàn, tuyệt đối không sử dụng cho người tỳ vị hư hàn. Người bị bệnh đầy bụng, đi ngoài phân lỏng, đau bụng tiêu chảy không thể nào dùng.

Ngoài ram bệnh nhân cảm lạnh gây nên ho, nóng sốt, chảy nước mũi hạn chế dùng.

Núc nác là dược liệu được ứng dụng để thăm khám rất nhiều bệnh lý. Truy nhiên, để bảo đảm đảm bảo cũng như thành công, người bị bệnh bắt buộc trao đổi với thầy thuốc cũng như bài thuốc trước lúc dùng vị thuốc.

Phía trên là những thông tin cần thiết về cây núc nác mong rằng sẽ giúp cho bạn tìm được một loại dược liệu tốt cho sức khoẻ nhất .

Có thể bạn tham khảo :

https://vabuta.webflow.io/categories/duoc-lieu

Công Dụng, Cách Dùng Núc Nác

Núc nác có tên khoa học: Oroxylum indicum (L.) Kurz. Tên khác: Nam hoàng bá, ngúc ngác, mộc hồ điệp, may ca, phăc ca (Tày), co ca liên (Thái), ngòng pắng điằng (Dao), p’sờ lụng (K’Ho), Bignonia indica L.. Cây nhỡ, cao 8-10 m, có khi hơn. Thân nhẵn, ít phân cành, có những sẹo to do lá rụng để lại. vỏ cây màu xám tro, mặt trong màu vàng nhạt.

,

Núc Nác (Oroxylum indicum (L.) Kurz)

1. Thông tin khoa học

Tên khoa học: Oroxylum indicum (L.) Kurz

Tên khác: Bạch ngọc nhi, Nam hoàng bá, ngúc ngác, mộc hồ điệp, may ca, phăc ca (Tày), co ca liên (Thái), ngòng pắng điằng (Dao), p’sờ lụng (K’Ho)

Tên nước ngoài: Indian trumpet flower, broke bones, midday marvel (Anh); oroxyle, calosanthe (Pháp)

Họ: Hoa chùm ớt (Bignoniaceae)

2.  Mô tả

Cây nhỡ, cao 8-10 m, có khi hơn. Thân nhẵn, ít phân cành, có những sẹo to do lá rụng để lại, vỏ cây màu xám tro, mặt trong màu vàng nhạt.

Lá to, mọc đối, xẻ 2-3 lần lông chim, dài đến 1.5 m, tập trung ở ngọn thân, lá chét hình bầu dục, nguyên, dài 6.5 – 14 cm, rộng 3.5 – 8 cm; gốc tròn, hơi lệch, đầu nhọn, mặt dưới nhẵn hoặc hơi có lông; cuống lá kép hình trụ, mập.

Cụm hoa mọc ở ngọn thân thành chùm, cuống mập, thẳng, dài 40 – 80 cm, mang nhiều sẹo rõ ở phía dưới; lá bắc nhỏ; hoa to màu nâu đỏ sẫm; dài hình chuông; hơi phình ở bọng, 5 cánh hoa hàn liền chia 2 môi, mép nhăn nheo có răng cưa, cong gập xuống; nhị 5 (4 cái đều và 1 cái hơi ngắn hơn), chỉ nhị có lông mịn ở gốc, bầu thuôn, dài.

Quả nang, dẹt và cong, dài 50 – 80 cm, rộng 5 – 7 cm, khi chín nứt làm 2 mảnh; hạt rất nhiều hình bầu dục, cứng, có cánh mỏng bao quanh.

Mùa hoa: tháng 5 – 7; mùa quả: tháng 8 – 10

3.  Phân bố sinh thái

Chi Oroxylum Vent, chỉ có một loài là núc nác ở Việt Nam. Trên thế giới, núc nác phân bố rộng rãi ở vùng nhiệt đới châu Á, bao gồm Srilanaca, Ấn Độ, Mianma, Trung Quốc, Lào, Việt Nam, Thái Lan, Philippin, đảo Selip và Timor của Indonesia. Ở Việt Nam, núc nác cũng là cây phổ biến từ vùng núi có độ cao khoảng 1300m (ở xã Lũng Hồ, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang) đến các tỉnh trung du và đồng bằng ven biển. Cây còn được dùng làm giá thể cho trầu không và hồ tiêu leo (Vùng Quảng Bình đến Quảng Nam).

Núc nác thuộc loại cây gỗ mọc nhanh, thường thấy ở ven rừng núi đá vôi, rừng thứ sinh, đất sau nương rẫy và dọc theo hai bên bờ thượng nguồn các dòng sông (Hồng, Chảy, Gâm….). Cây ưa mọc trên đất tơi xốp có tầng đất mặt sâu, dễ thấm nước. Ở các tỉnh miền Trung, núc nác mọc được ở cả trên loại đất pha cát của vùng ven biển. Cây có khả năng chịu hạn và chịu nóng tốt.

4. Cách trồng

Núc nác được nhân giống dễ dàng bằng hạt hoặc bằng cành.

Thời vụ gieo trồng vào mùa xuân. Hạt chín được thu vào lúc quả chuyển sang màu vàng.

Nếu để quả quá già tự tách hạt sẽ văng ra và bay theo gió.

Hạt phơi xong đem phơi khô và bảo quản đến mùa xuân năm sau thì gieo trong vườn ươm, sau đó đánh cây con đi trồng.

Nếu không cần nhiều cây giống, dùng cách giâm cành. Chỉ cần cắm cành xuống đất và giữ ẩm là được. Còn có thể thu gom cây con mọc từ hạt để trồng.

Núc nác không kén đất nhưng ưa nơi ẩm, mát. Khi trồng, đào hố 40x40x40 cm khoảng cách 2×2 m, bón lót ít phân chuồng, đặt cây và giữ ẩm 7 – 10 ngày. Có thể trồng xen với các  cây lưu niên khác. Cây không cần chăm sóc đặc biệt.

5.  Bộ phận dùng

Vỏ thân và hạt. Vỏ thân, thu hái khi cần thiết, phơi khô hoặc cạo lớp vỏ sần rồi thái phiến dài 2 – 5 cm, dày 1 – 3 mm phơi khô. Khi dùng để nguyên hoặc sao nhỏ lửa cho vàng. Hạt thu hái ở quả núc nác chín (mộc hồ điệp) vào mùa thu đông, phơi khô.

Khi dùng có thể trích với muối ăn (mộc hồ điệp 10 kg, muối ăn 400 g, nước sôi để pha vừa đủ, bằng cách ngâm tẩm mộc hồ điệp với nước muối trong 30 phút cho ngấm hết muối, rồi dùng lửa nhỏ sao cho có màu đen.

6.  Thành phần hóa học

Vỏ thân Núc nác chứa một ít ancaloit, tanin và một số dẫn xuất flavonoit ở dạng tự do hay heterozit. Những chất flavonoit thường thấy là: Oroxylin A, Baicalein, Crysin, Tetuin.

Hạt Núc nác có chứa một chất kiềm màu vàng, một chất dầu béo chứa 80.4% axit oleic, các axit panmitic, stearic, và có thể cả axit lignoxeric. Ngoài ra, hạt có chứa ellagic axit.

Vỏ rễ chứa chrysin, baicalein, biochanin-A, và acid ellagic. Oroxylin A, chrysin, triterpene axit cacboxylic và axit ursolic được tìm thấy trong vỏ quả (Suratwadee et al 2002).

7. Tác dụng dược lý

Vỏ núc nác đã được nghiên cứu thực nghiệm thấy có tác dụng rõ rệt chống dị ứng và làm tăng sức đề kháng của cơ thể đối với một số tác nhân độc hại.

Nó làm giảm độ thấm của mạch máu ở chuột đã gây mẩn cảm bằng lòng trắng trứng hoặc ở nơi tiêm trong da chất formalin và histamin cho chuột bình thường.

Núc nác có tác dụng ức chế giai đoạn cấp tính của phản ứng viêm, tác dụng này thể hiện mạnh hơn ở động vật đã được gây mẫn cảm.

Độc tính của vỏ núc nác rất thấp.

Flavonoid chiết xuất từ cây núc nác có tác dụng chống choáng phản vệ gây bằng lòng trắng trứng trên thỏ và chuột lang và không có tác dụng bảo vệ đối với choáng gây bằng histamin trên chuột lang.

Chế phẩm nunacin bào chế từ flavonoid toàn phần chiết ở vỏ núc nác đã được dùng điều trị 37 bệnh nhân mắc bệnh vảy nến.

Số ngày điều trị cho mỗi bệnh nhân là 54 – 191 ngày. Kết quả: 14 bệnh nhân khỏi, 18 bệnh nhân đỡ nhiều, 5 trường hợp không có kết quả.

Có 20 trong số 30 bệnh nhân nói trên đã được điều trị phối hợp với mỡ salicylic bôi ngoài da.

Nunacin còn được dùng trong những trường hợp sau:

Điều trị 62 trẻ em bị bệnh hen phế quản, có 41 bệnh nhân thu được kết quả tốt hoặc khá, chiếm tỷ lệ 66.1% và 21 bệnh nhân không có kết quả, tỷ lệ 33.9 % (trong đó 10 bệnh nhân nặng). Trong thời gian điều trị từ 3 đến 12 tháng, không trường hợp nào có biểu hiện độc hại.

Điều trị 23 bệnh nhân bị tổ đỉa phối hợp với bôi thuốc tây y ngoài da. Kết quả: 18/21 khỏi nhiễm trùng, 2/21 đỡ nhiều, 1/21 không khỏi nhiễm trùng. Về khỏi mụn nước đạt 5/23, đỡ nhiều 7/23, đỡ ít 7/23, không khỏi 4/23.

Điều trị 50 bệnh nhân mày đay với kết quả khỏi 58%, đỡ 28% và không kết quả 14%.

Chế phẩm Oroxin là cao toàn phần của vỏ núc nác để điều trị 30 bệnh nhân mày đay. Kết quả: khỏi 56%, đỡ nhiều 16.6%, đỡ ít 6.6%, không đỡ 20%. So với nunacin, Oroxin tác dụng không được bền vững và tái phát nhiều hơn sau khi ngưng thuốc. Oroxin cũng như nunacin không gây tác dụng phụ khi dùng dài ngày trên lâm sàng.

Vỏ và quả núc nác có tác dụng ức chế co thắt gây bởi acetylcholin và histamin trên hồi tràng cô lập chuột lang.

8.  Tính vị, công năng

Núc nác có vị đắng, tính mát, có tác dụng thanh can giải nhiệt, tiêu độc, sát trùng, nhuận phế, chỉ khái, chỉ thống.

9.  Công dụng:

Vỏ núc nác được dùng chữa các chứng bệnh vàng da, dị ứng, mẩn ngứa, viêm họng, ho khan tiếng, đau dạ dày, lỵ, viêm đường tiết niệu, đái buốt ra máu, trẻ con ban, sởi. Ngày dùng 8 – 16g dưới dạng thuốc sắc hoặc cao lỏng.

Hạt núc nác chữa ho lâu ngày, viêm khí quản, đau dạ dày, đau bụng, vết loét không liền miệng, ngày uống 2-3 g dạng thuốc sắc (chữa ho) hay sấy khô tán nhỏ (chữa đau dạ dày). Dùng ngoài tán bột rắc lên vết lở loét, mụn nhọt vỡ lâu ngày không liền miệng.

Phần lớn các bộ phận của cây núc nác được dùng trong y học cổ truyền Ấn Độ. Vỏ rễ tươi và toàn bộ rễ sẽ mất hoạt tính sau một số tháng bảo quản. Vỏ rễ là thuốc bổ và làm sẵn, chữa ỉa chảy, kiết lỵ, làm toát mồ hôi, thấp khớp. Dùng ngoài, vỏ rễ được đun sôi trong dầu vừng, bôi chữa chảy mủ tai. Quả non được dùng làm mát và dễ tiêu. Hạt làm thuốc tẩy.

Ở Malaysia, nước sắc lá cây núc nác uống chữa đau dạ dày và thấp khớp; dùng ngoài chữa lách to, nhức đầu và cách bệnh loét. Vỏ và hạt được dùng trong thú y.

Thuốc cổ truyền Ấn Độ bào chế bằng cách chiết rễ núc nác trong dầu cùng với 16 dược liệu khác được dùng để chữa chứng tóc sớm bị hoa râm.

Ở Nepal, vỏ thân và rễ núc nác được dùng làm thuốc chống viêm

Kiêng kị: Người hư hàn đau bụng, đầy bụng, tiêu chảy không nên dùng núc nác.

10. Bài thuốc chứa núc nác

Chữa táo bón:: 

Vỏ núc nác, lá cối xay (liều lượng bằng nhau) sắc uống.

Chữa ngộ độc do ăn thịt động vật bị bệnh: 

Vỏ núc nác tán bột hoặc sắc uống.

Chữa sai khớp xương, bong gân: 

Vỏ núc nác, quế, hồi hương, đinh hương, vỏ sòi, gừng sống, lá canh châu, lá đau xương, mủ xương rồng bà, lá thầu dầu tía,lá náng, lá kim cang, lá mua, huyết giác, nghệ, hạt chấp, hạt máu chó, lá bưởi bung, lá tầm gửi cây khế (nếu có sưng cơ thì bỏ lá đau xương, thêm giấm). Các vị giã nát, sao nóng mà chườm.

Chữa mẩn ngứa: 

Vỏ núc nác, thạch cao, lá chàm, day vàng giang, mỗi vị 20g, sắc uống.

Chữa eczema bội nhiễm chảy nước vàng: 

Vỏ núc nác phối hợp với sài đất, sâm đại hành, nấu thành cao đặc, bôi.

Chữa viêm phế quản, ho lâu ngày: 

Hạt núc nác 10g, đường phèn hay kẹo mạch nha 30g, nước 300ml. Sắc còn 200 ml, chia 3 lần uống trong ngày.

Chữa kiết lỵ, đau dạ dày ợ chua, ợ hơi: 

Hạt núc nác khô tán bột hay sắc uống, mỗi ngày 8 – 16 g

Chữa viêm đường tiết niệu, đái buốt ra máu: 

Vỏ núc nác, rễ cỏ tranh, mã đề, mỗi thứ một nắm sắc uống.

Chữa lở ngứa, tổ đỉa, giang mai lở loét: 

Vỏ núc nác, khúc khắc, mỗi vị 30g, sắc uống hàng ngày.

Chữa trẻ em lở ngứa chảy nước vàng: 

Vỏ núc nác 100g, hạt xà sàng 50g. Nấu nước xông và rửa mỗi ngày một lần. Làm như vậy 3-4 lần.

Chữa lở loét do sơn ăn: 

Vỏ núc nác tươi (số lượng tùy theo vết loét), giã nát, thêm rượu 30 – 40 độ theo tỷ lệ một phần vỏ, 3 phần rượu, ngâm trong khoảng 2-3 giờ, dùng bôi.

Chữa tổ đỉa: 

Vỏ núc nác 30g, quả ké 50g,thổ phục linh 50 g, hạ khô thảo 50g, khổ sâm 30g, sinh địa 20 g, hạt dành dành 15g. Tán bột, làm thành viên, ngày uống 20 – 25g.

Chữa mụn nhọt, chốc lở, mẩn ngứa, mày đay, viêm nhiễm thông thường: 

Vỏ núc nác 13g (hoặc thổ phục linh 15g hay vỏ gạo 13g), sài đất 50g, kim ngân 20g, sinh địa 20g, ké đầu ngựa 15g, cam thảo dây 15g. Sắc 2 nước, chia nhiều lần uống trong ngày, mỗi ngày 1 thang, trong 5 – 7 ngày.

Chữa thấp khớp sưng đau: 

Vỏ núc nác, dây đau xương, thiên niên kiện, cây vòi voi, độc hoạt, phòng kỷ, rê bưởi bung, ngu gia bì chân chim, độc lực, rễ cỏ xước, kê huyết đằng, rễ trinh nữ, quế chi. Tất cả các vị phơi khô. Trừ quế chi, thiên niên kiện, độc hoạt, còn các vị khác đều sao vàng và để ngập nước trên dược liệu 20 cm. Sắc với nước hai lần, lần thứ nhất trong 6 giờ, lần thứ hau 3 giờ. Gộp 2 nước lại, lọc, tiếp tục sắc, khi gần được (trước 40 phút) cho quế, thiên niên kiện và độc hoạt vào. Cô đến khi đạt tỉ lệ 1:1 so với dược liệu. Pha cao với siro đơn với tỉ lệ 10%. Ngày uống 200 -250 ml chia 2 lần. Chống chỉ định đối với phụ nữ có thai

Chữa trĩ: 

Vỏ núc nác 12g, ngủ bội tử 12g, hoa kinh giới 12g, phèn phi 4g. Sắc lấy 300 – 400 ml, cho bệnh nhân ngâm hậu môn hàng ngày.

Chữa sốt xuất huyết có kèm mẩn ngứa: 

Vỏ núc nác 20 g, rau má 30g, cỏ nhọ nồi 30g, bông mã đề 20g.Tất cả dùng tươi, giã nát, thêm nước, gạn uống  hoặc sắc uống.

Chữa đái rắt buốt do nhiễm khuẩn đường tiết niệu: 

Vỏ núc nác 12g; rau má 20g; thạch hộc, quả dành dành, mỗi vị 12g, nhục quế 4g. Sắc uống ngày một thang, nếu nặng có thể 2 thang/ ngày.

Chữa liệt dương do viêm nhiễm sỏi lâu ngày ở vùng tiết niệu sinh dục: 

Vỏ núc nác, ý dĩ, mạch môn, kỷ tử, thục địa, huyết đằng, hà thủ ô mỗi vị 12g; trâu cổ, phá cố chỉ, môi vị 8g. Sắc uống ngày một thang.

Chữa bỏng (kết hợp với cấp cứu ngoại khoa): 

Vỏ núc nác 12g, bồ công anh 20g, hoàng liên, kim ngân hoa, sinh địa, mạch môn, thạch hộc, mỗi vị 16g, chi tử 8g. Sắc uống ngày một thang.

Công Dụng Chữa Bệnh Của Cây Núc Nác

Cây núc nác còn có tên gọi là So đo thuyền, Cơn cà, Nam hoàng bá, K’nốc, Ungca (Lào). Tên khoa học Oroxylum indicum (L) Vent. Họ Chùm ớt- Bignoniaceae. 1. Đặc điểm hình thái và sinh thái

Cây gỗ cao 8-15m hoặc hơn, thân thường chi phân cành ở ngọn. Lá lớn, 2-3 lần, kép lông chim, dài tới 2m, lá chét có cuống ngắn, phiến lá hình trứng dài 8-15cm, rộng 5-6cm, đầu nhọn, mép lá nguyên. Hoa to màu nâu đỏ, mọc thành chùm ở ngọn, đài dài, hình ống khía 5 răng nông, tràng hình chuông loe rộng ở đỉnh và xẻ 5 thùy không đều nhau. Quả non rất to (có khi dài tới 1m) dẹt và hơi cong. Hạt nhiều, có cánh mành rộng (giống hình con bướm).

Nơi sống: Trong rừng thưa, rừng thứ sinh, nơi sáng, trên nương rẫy cũ. Có phổ biến ở Việt Nam. còn có ở Trung Quốc, Lào, Campuchia.

2. Công dụng và thành phần dinh dưỡng

2.1 Công dụng

Hoa, quả thu hái vào mùa Hạ. Lá có thể hái quanh năm. Lá non luộc bỏ nước, chấm mắm: có thể dùng lá non, hoa hoặc quả non xào hoặc nấu canh. Quả non nướng qua, cạo bỏ vỏ ngoài rồi thái lát mỏng chấm mắm ăn. Hạt núc nác (mộc hồ điệp) sắc với nước và đường phèn (hay kẹo mạch nha) uống chữa ho, viêm phế quản. Hạt sấy khô, tán nhỏ uống chữa đau dạ dày hoặc rắc lên vết lở loét, mụn nhọt lở lâu ngày mà chưa liền miệng, vỏ cây làm thuốc bổ, còn dùng để chữa dị ứng ngoài da, dị ứng sơn. Thân làm giá thể trồng tiêu.

2.2 Đơn thuốc có vị núc nác

– Chữa viêm phế quản, ho lâu ngày

Mộc hồ điệp 10g, đường phèn hay kẹo mạch nha 30g,nước 300ml sắc còn 200ml. Chia 3 lần uống trong ngày

– Chữa lở loét do sơn ăn

Vỏ núc nác tươi ( số lượng tùy theo vết loét) giã nát, thêm rượu 30-40o vào cứ 1 phần vỏ, 3 phần rượu, ngâm vào khoảng 2-3 giờ. Dùng rượu này bôi vào nơi lở sơn. Ngày bôi 3-4 lần. Chỉ 2-3 ngày là khỏi.

3. Cách gây trồng và chăm sóc

– Giống chủ yếu từ hom thân, cành và hom rễ. Tiến hành chặt các đoạn thân, cành, rễ có chiều dài từ 30-50cm giâm vào đất ở những nơi ẩm. mát sau một thời gian thấy xuất hiện chồi mới dài 30-40cm có thể bứng cây đi trồng.

– Trồng và chăm sóc

Núc nác trồng thích hợp trên nhiều loại đất nhưng không thích hợp với đất thường bị ngập úng. Hố trồng 40x40x40cm gồm phân chuồng hoai và rác. Hố cách hố 3-5m. Hố chuẩn bị trước khi trồng khoảng 30 ngày. Cây con bứng đến đâu trồng đến đó. Đặt cây vào giữa hố sâu 15-20cm, lắp đất đầy hố, ém chặt đất xung quanh gốc cây. trồng xong tưới nước và vun đất vào hố như hình mai rùa. Cắm cọc để giữ cây con.

Núc nác thích hợp trong mô hình NLKH, trồng phân tán ven hàng rào hay trồng ở sân, vườn kết hợp lấy bóng mát. Nếu chỉ tập trung mục đích lấy lá và ngọn non thì nên đốn cây tạo tán thấp nhiều cành để dễ thu hái và cho năng suất cao. Có thể thu hoạch rau quanh năm khi cây ra lá non, hoa hay quá non. Hàng năm nên lưu ý bón thêm phân cho cây

Nguồn : Rau rừng Việt Nam

Cây Núc Nác Có Tác Dụng Chữa Bệnh Ung Thư Thần Kỳ Nhưng Ít Người Biết

Chạm mặt cây chữa ung thư mà không biết .Xung quanh vườn nhà của mỗi gia đình có rất nhiều cây thuốc nam có tác dụng chữa bệnh thần kỳ nhưng ít người biết. Trong số này có cây núc nác, tên khoa học là Orocylum indicum (L) Vent. Đây vừa là cây thực phẩm, vừa là cây thuốc vô cùng quý trong văn hóa chữa bệnh của người Việt. #Dongtayy #Đông_tây_y

Lá, hoa và quả khi còn non có thể làm món xào, luộc hay nộm. Hoa và quả thường thu hoạch vào mùa hè. Trên thế giới, các nhà khoa học cũng đã có nhiều nghiên cứu và xác minh thực nghiệm về tác dụng chữa bệnh của cây núc nác, trong đó nổi bật là điều trị các bệnh như: Dạ dày, viêm gan, dị ứng, viêm phế quản, mụn nhọt, lị và đặc biệt là ung thư.

Cây núc nác có tác dụng chữa bệnh thần kỳ nhưng ít người biết Trong hạt và vỏ cây núc nác có chứa ít nhất 5 loại flavonoid, có tính kháng Histamin tác dụng tốt đối với bệnh dị ứng, mề đay và mẩn ngứa và chất đắng kết tinh Oroxylin, Alcaloid.

Hạt núc nác phơi khô sắc uống hoặc tán bột uống có thể giúp điều trị viêm họng cấp và mãn tính, viêm phế quản, ho gà, đau dạ dày, đau mạng sườn…

Với vỏ núc nác thường được đẽo trên vỏ cây còn sống, khi phơi, sấy khô thường gọi là hoàng bá nam có vị đắng ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt táo thấp, tiêu thũng, giải độc. Ngoài ra còn có tác dụng chữa viêm gan vàng da, viêm bàng quang, ỉa chảy, viêm họng, viêm phế quản, hen phế quản, ho khan tiếng, sởi, mề đay…

Dùng vỏ núc nác lượng 9 – 15g sắc hoặc nấu thành cao uống, kết hợp bôi ngoài hoặc rửa giúp điều trị dị ứng, mề đay.

Phương pháp chữa bệnh bằng liệu pháp thiên nhiên, không can thiệp cũng là xu hướng của thế giới hiện nay, tức dùng các loại dược vật thay cho hóa chất tổng hợp để chữa các bệnh chuyển hóa, miễn dịch theo quy luật sinh học.

Vỏ cây Núc Nác 16g, Chó đẻ răng cưa 16g, Cối Xay 16g, Sài Hồ 12g, Đương Quy 16g, Tam Thất 10g, Thanh Bì 12g, Cơm Rượu 16g, Xa Tiền 12g, Rễ Cỏ Tranh 16g, Cam Thảo 12g. Sắc uống ngày một thang chia 2 lần.

Cây Núc Nác – Oroxylum indicum

Thuộc họ Núc nác – Bignoniaceae.

Cây nhỡ, cao 5-13m. Thân nhẵn, ít phân cành, vỏ cây màu xám tro, mặt trong màu vàng. Lá xẻ 2-3 lần lông chim, dài tới 1,5m. Hoa màu nâu đỏ sẫm mọc thành chùm dài ở ngọn thân. Đài hình ống, cứng, dày, có 5 khía nông. Tràng hình chuông, phình rộng, có 5 thuỳ họp thành hai môi, 5 nhị, có chỉ nhị có lông ở gốc. Đĩa mật có 5 thuỳ rõ, cao 4-5mm, đường kính 12-14mm. Quả thõng, dài 40-120cm, rộng 5-10cm, các mảnh vỏ hoá gỗ. Hạt dài 4-9cm, rộng 3-4cm, kể cả cánh mỏng bao quanh.

Hoa nở về đêm, thụ phấn nhờ dơi. Hoa và quả từng lúc quanh năm. Các quả chín vẫn ở trên cây khá lâu vào mùa khô khi cây rụng hết lá.

Loài phân bố từ Xri Lanca tới Ấn Độ qua Himalaya, Nam Trung Quốc, Đông Nam Á châu tới Philippin, các đảo Xêlép và Timo. Ở nước ta, cây mọc hoang ở rừng thường xanh và có khi trong các quần hệ thứ sinh những vùng thấp ẩm ướt, tới độ cao 900m. Cũng có nhiều nơi gây trồng. Trồng bằng hạt hoặc bằng cành vào mùa xuân. Thu hái quả nang chín màu nâu vào mùa thu và đông, phơi khô ngoài nắng cho vỏ nứt hạt, tách lấy hạt và phơi tiếp cho đến khô. Vỏ cây thu hái quanh năm; khi cần thiết, đẽo vỏ trên cây, phơi hay sấy khô.

Vỏ và hạt chứa một hỗn hợp flavonoid và chất đắng kết tinh là oroxylin. Vỏ chứa baicalein và chrysin. Hạt cũng chứa oroxylin và một chất dầu chứa 80,40% acid oleic, acid palmitic, acid stearic và acid lignoceric.

Lá hoa và quả khi còn non đều ăn được sau khi đun nấu. Người ta thường lùi quả non vào trong tro than rồi đem bóc bỏ vỏ ngoài, lấy phần trong của quả xào ăn. Hạt, vỏ thân thường được dùng làm thuốc.

Hạt dùng trị: viêm họng cấp và mạn tính, khan cổ; viêm phế quản cấp và ho gà; Đau vùng thượng vị, Đau sườn.

Vỏ được dùng trị: viêm gan vàng da, viêm bàng quang, viêm họng, khô họng, ho khan tiếng, trẻ em ban trái, sởi. Cũng dùng chữa dị ứng sơn, trị bệnh vẩy nến, hen phế quản trẻ em.

Ở Ấn Độ, người ta dùng vỏ rễ trị ỉa chảy, lỵ, vỏ thân làm thuốc bổ đắng và trị tê thấp cấp tính. Quả non lợi trung tiện và lợi tiêu hoá. Hạt để xổ và làm thuốc trị rắn cắn.

Liều dùng: 1,5-3g hạt, 15-30g vỏ, dạng thuốc sắc. Có thể nấu thành cao hay chế dạng bột. Dùng ngoài nấu nước rửa hoặc dùng cao bôi.

Ở nước ta đã sản xuất nunaxin viên 0,25g từ hỗn hợp các flavonoid để chữa mày đay và mẩn ngứa, dùng vỏ Núc nác làm viên Habanin kháng trùng và một loại viên kết hợp 2 dạng thuốc trên.

Đơn thuốc:

1. Ngoài da lở ngứa, bệnh tổ đĩa ngứa giữa lòng bàn tay, bệnh giang mai lở loét: Vỏ Núc nác, Khúc khắc, mỗi vị 30g, sắc uống hàng ngày.

2. Viêm đường tiết niệu, đái buốt ra máu: Vỏ núc nác, rễ Cỏ tranh, Mã đề mỗi thứ một nắm, sắc nước uống.

3. Ho lâu ngày: 5-10g hạt, sắc nước hoặc tán bột uống.

4. Lở do dị ứng sơn: Vỏ Núc nác nấu cao, dùng uống và bôi vào chỗ lở.

Cây Diệp hạ châu, Tên khoa học, Thành phần hóa học, tác dụng chữa bệnh của cây (Phyllanthus urinaria L)

Cây Cà gai leo, Tên khoa học, Thành phần hóa học, tác dụng chữa bệnh của cây

Cây Hoàng cầm, Tên khoa học, Thành phần hóa học, tác dụng chữa bệnh của cây

Cây Hồng hoa, Rum, Tên khoa học, Thành phần hóa học, tác dụng chữa bệnh của cây

Cây Hoàng cầm râu, Bán chi liên, Tên khoa học, Thành phần hóa học, tác dụng chữa bệnh của cây

Cây Mạch môn đông, Tên khoa học, Thành phần hóa học, tác dụng chữa bệnh của cây

Nấm Linh chi, Nấm lim – Ganoderma lucidum, tác dụng chữa bệnh của Nấm

Cây Me rừng, Chùm ruột núi, Phyllanthus emblica L, và tác dụng chữa bệnh của cây

Cây Hà thủ ô trắng, Dây sữa bò, Streptocaulon juventas và tác dụng chữa bệnh của cây

Cây Hà thủ ô, Hà thủ ô đỏ, Polygonum multiflorum Thumb và tác dụng chữa bệnh của cây

Cây Hàm ếch, Trầu nước, Saururus chinensis và tác dụng chữa bệnh của cây

Cây Cỏ tranh, Bạch mao, Tên khoa học, Thành phần hóa học, tác dụng chữa bệnh của cây

Chạm mặt cây chữa ung thư mà không biết .Xung quanh vườn nhà của mỗi gia đình có rất nhiều cây thuốc nam có tác dụng chữa bệnh thần kỳ nhưng ít người biết. Trong số này có cây núc nác, tên khoa học là Orocylum indicum (L) Vent. Đây vừa là cây thực phẩm, vừa là cây thuốc vô cùng quý trong văn hóa chữa bệnh của người Việt. #Dongtayy #Đông_tây_y

Lá, hoa và quả khi còn non có thể làm món xào, luộc hay nộm. Hoa và quả thường thu hoạch vào mùa hè. Trên thế giới, các nhà khoa học cũng đã có nhiều nghiên cứu và xác minh thực nghiệm về tác dụng chữa bệnh của cây núc nác, trong đó nổi bật là điều trị các bệnh như: Dạ dày, viêm gan, dị ứng, viêm phế quản, mụn nhọt, lị và đặc biệt là ung thư.

Cây núc nác có tác dụng chữa bệnh thần kỳ nhưng ít người biết Trong hạt và vỏ cây núc nác có chứa ít nhất 5 loại flavonoid, có tính kháng Histamin tác dụng tốt đối với bệnh dị ứng, mề đay và mẩn ngứa và chất đắng kết tinh Oroxylin, Alcaloid.

Hạt núc nác phơi khô sắc uống hoặc tán bột uống có thể giúp điều trị viêm họng cấp và mãn tính, viêm phế quản, ho gà, đau dạ dày, đau mạng sườn…

Với vỏ núc nác thường được đẽo trên vỏ cây còn sống, khi phơi, sấy khô thường gọi là hoàng bá nam có vị đắng ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt táo thấp, tiêu thũng, giải độc. Ngoài ra còn có tác dụng chữa viêm gan vàng da, viêm bàng quang, ỉa chảy, viêm họng, viêm phế quản, hen phế quản, ho khan tiếng, sởi, mề đay…

Dùng vỏ núc nác lượng 9 – 15g sắc hoặc nấu thành cao uống, kết hợp bôi ngoài hoặc rửa giúp điều trị dị ứng, mề đay.

Phương pháp chữa bệnh bằng liệu pháp thiên nhiên, không can thiệp cũng là xu hướng của thế giới hiện nay, tức dùng các loại dược vật thay cho hóa chất tổng hợp để chữa các bệnh chuyển hóa, miễn dịch theo quy luật sinh học.

Vỏ cây Núc Nác 16g, Chó đẻ răng cưa 16g, Cối Xay 16g, Sài Hồ 12g, Đương Quy 16g, Tam Thất 10g, Thanh Bì 12g, Cơm Rượu 16g, Xa Tiền 12g, Rễ Cỏ Tranh 16g, Cam Thảo 12g. Sắc uống ngày một thang chia 2 lần.

Cây Núc Nác – Oroxylum indicum

Thuộc họ Núc nác – Bignoniaceae.

Cây nhỡ, cao 5-13m. Thân nhẵn, ít phân cành, vỏ cây màu xám tro, mặt trong màu vàng. Lá xẻ 2-3 lần lông chim, dài tới 1,5m. Hoa màu nâu đỏ sẫm mọc thành chùm dài ở ngọn thân. Đài hình ống, cứng, dày, có 5 khía nông. Tràng hình chuông, phình rộng, có 5 thuỳ họp thành hai môi, 5 nhị, có chỉ nhị có lông ở gốc. Đĩa mật có 5 thuỳ rõ, cao 4-5mm, đường kính 12-14mm. Quả thõng, dài 40-120cm, rộng 5-10cm, các mảnh vỏ hoá gỗ. Hạt dài 4-9cm, rộng 3-4cm, kể cả cánh mỏng bao quanh.

Hoa nở về đêm, thụ phấn nhờ dơi. Hoa và quả từng lúc quanh năm. Các quả chín vẫn ở trên cây khá lâu vào mùa khô khi cây rụng hết lá.

Loài phân bố từ Xri Lanca tới Ấn Độ qua Himalaya, Nam Trung Quốc, Đông Nam Á châu tới Philippin, các đảo Xêlép và Timo. Ở nước ta, cây mọc hoang ở rừng thường xanh và có khi trong các quần hệ thứ sinh những vùng thấp ẩm ướt, tới độ cao 900m. Cũng có nhiều nơi gây trồng. Trồng bằng hạt hoặc bằng cành vào mùa xuân. Thu hái quả nang chín màu nâu vào mùa thu và đông, phơi khô ngoài nắng cho vỏ nứt hạt, tách lấy hạt và phơi tiếp cho đến khô. Vỏ cây thu hái quanh năm; khi cần thiết, đẽo vỏ trên cây, phơi hay sấy khô.

Vỏ và hạt chứa một hỗn hợp flavonoid và chất đắng kết tinh là oroxylin. Vỏ chứa baicalein và chrysin. Hạt cũng chứa oroxylin và một chất dầu chứa 80,40% acid oleic, acid palmitic, acid stearic và acid lignoceric.

Lá hoa và quả khi còn non đều ăn được sau khi đun nấu. Người ta thường lùi quả non vào trong tro than rồi đem bóc bỏ vỏ ngoài, lấy phần trong của quả xào ăn. Hạt, vỏ thân thường được dùng làm thuốc.

Hạt dùng trị: viêm họng cấp và mạn tính, khan cổ; viêm phế quản cấp và ho gà; Đau vùng thượng vị, Đau sườn.

Vỏ được dùng trị: viêm gan vàng da, viêm bàng quang, viêm họng, khô họng, ho khan tiếng, trẻ em ban trái, sởi. Cũng dùng chữa dị ứng sơn, trị bệnh vẩy nến, hen phế quản trẻ em.

Ở Ấn Độ, người ta dùng vỏ rễ trị ỉa chảy, lỵ, vỏ thân làm thuốc bổ đắng và trị tê thấp cấp tính. Quả non lợi trung tiện và lợi tiêu hoá. Hạt để xổ và làm thuốc trị rắn cắn.

Liều dùng: 1,5-3g hạt, 15-30g vỏ, dạng thuốc sắc. Có thể nấu thành cao hay chế dạng bột. Dùng ngoài nấu nước rửa hoặc dùng cao bôi.

Ở nước ta đã sản xuất nunaxin viên 0,25g từ hỗn hợp các flavonoid để chữa mày đay và mẩn ngứa, dùng vỏ Núc nác làm viên Habanin kháng trùng và một loại viên kết hợp 2 dạng thuốc trên.

Đơn thuốc:

1. Ngoài da lở ngứa, bệnh tổ đĩa ngứa giữa lòng bàn tay, bệnh giang mai lở loét: Vỏ Núc nác, Khúc khắc, mỗi vị 30g, sắc uống hàng ngày.

2. Viêm đường tiết niệu, đái buốt ra máu: Vỏ núc nác, rễ Cỏ tranh, Mã đề mỗi thứ một nắm, sắc nước uống.

3. Ho lâu ngày: 5-10g hạt, sắc nước hoặc tán bột uống.

4. Lở do dị ứng sơn: Vỏ Núc nác nấu cao, dùng uống và bôi vào chỗ lở.

Cây Núc Nác Thanh Nhiệt, Giải Độc

Núc nác còn gọi là Nam hoàng bá (Oroxylum indicum (L.) Vent., họ hoa chùm ớt (Bignoniaceae), thuộc loại cây gỗ mọc hoang nhiều ở nước ta. Người ta thường bóc lấy vỏ cây theo từng bên để cây có thể tái sinh vỏ mà không cần đốn hạ, có thể thu hoạch vỏ quanh năm. Sau khi bóc lấy vỏ núc nác, đem phơi khô. Khi dùng, cạo bỏ lớp bần bên ngoài, rửa sạch, thái mỏng, sao vàng. Hoặc có thể dùng vỏ tươi, cạo bỏ lớp vỏ bần, thái phiến mỏng, rồi phơi hoặc sấy khô, để nơi khô thoáng.

Trị các chứng vàng da, dị ứng mẩn ngứa, sởi, viêm họng, ho khan, đau dạ dày, lỵ, viêm đường tiết niệu, tiểu tiện ra máu, tiểu buốt: vỏ thân hoặc vỏ rễ núc nác 8-16g, sắc uống; dùng ngoài lấy dịch tươi, hoặc nước ngâm rửa.

Trị dị ứng, nổi mụn mẩn ngứa, chảy nước vàng: vỏ núc nác, sài đất, sâm đại hành đồng lượng nấu thành cao đặc, bôi vào nơi bị bệnh sau khi đã rửa sạch các vết ngứa bằng nước đun sôi để hơi ấm hay nước muối loãng, lau khô.

Trị hắc lào: rửa sạch chỗ hắc lào bằng nước sôi để hơi ấm hoặc nước muối 0,9%, rồi lau khô. Cắt ngang một quả chuối còn xanh (loại chuối cơm hoặc chuối tây), xát mặt cắt quả chuối vào chỗ bị hắc lào nhiều lần. Đem vỏ tươi núc nác cạo bỏ lớp vỏ bần màu xám bên ngoài, thái nhỏ, giã nát, vắt lấy dịch, chấm nhiều lần vào nơi bị bệnh; ngày làm 2-3 lần.

Trị tổ đỉa, giang mai lở loét: vỏ núc nác 30g, thổ phục linh 30g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống 3 – 4 tuần, nghỉ 1 tuần; uống liệu trình mới. Hoặc vỏ núc nác 30g, rễ khổ sâm 30g; quả ké đầu ngựa, thổ phục linh, hạ khô thảo mỗi vị 50g; sinh địa 20g; chi tử 15g. Tất cả tán bột mịn, làm hoàn, ngày uống 20-25g, chia 3 lần trước các bữa ăn 1 giờ.

Trị chốc đầu, ngứa lở, mẩn ngứa ở trẻ em: vỏ núc nác 100g, hạt xà sàng 50g, sắc nước rửa chỗ ngứa lở ngày 1 lần. Làm liền 3-4 ngày. Để tăng hiệu quả trị liệu, có thể dùng thêm vỏ núc nác, thổ phục linh, ké đầu ngựa, cam thảo dây mỗi vị 15g; kim ngân hoa 20g, sinh địa 20g; sắc uống ngày 1 thang, chia làm 3 lần, uống trước bữa ăn 1 giờ.

Trị chứng thấp nhiệt (viêm đường tiết niệu, tiểu buốt, tiểu ra máu): vỏ núc nác, mã đề (toàn cây), rễ cỏ tranh (nếu tiểu ra máu thì sao đen). Sắc uống ngày 1 thang. Uống liền 5-7 thang.

Trị đại tràng thực nhiệt gây táo bón: vỏ núc nác, lá cối xay đồng lượng 15g; sắc uống, ngày 1 thang; uống liên tục vài ngày.

Trị chứng kiết lỵ, đau dạ dày ợ chua, ợ hơi: hạt núc nác sao vàng tán bột mịn, ngày uống 10-16g, chia 2 lần trước bữa ăn 1 giờ.

Trị viêm phế quản, ho lâu ngày: hạt núc nác 10g, đường phèn 30g. Sắc uống chia 3 lần trong ngày, trước bữa ăn 1 giờ. Nếu ho, họng đau, mất tiếng, dùng hạt núc nác, khoản đông hoa, tang bạch bì đồng lượng 12g. Sắc uống ngày 1 thang, 3 lần, trước bữa ăn 1 giờ.

GS.TS Phạm Xuân Sinh

Núc Nác: Vị Thuốc Có Nhiều Công Dụng

Núc nác là một loại cây rừng có sức sống cao. Ngoài ra, đây còn là một vị thuốc được dùng trong dân gian với rất nhiều công dụng. Núc nác có thể chữa viêm gan vàng da, giúp thanh nhiệt giải độc, trị mẩn ngứa, chữa viêm phế quản… Để tìm hiểu công dụng, cách dùng và những điều cần biết về cây Núc nác, xin mời bạn đọc trong bài viết sau.

1. Mô tả

Núc nác còn có tên gọi là Nam hoàng bá, Mộc hồ điệp, Ngúc nác. Tên khoa học là Oroxylum indicum (L.) Kurz – Bignonia indica L., thuộc họ Chùm ớt (Bignoniaceae).

1.1. Cây Núc nác

Cây nhỡ, cao 8 – 10 m, có khi hơn. Thân nhẵn, ít phân cành, có những sẹo to do lá rụng để lại. Vỏ cây màu xám tro, mặt trong màu vàng nhạt. Lá to, mọc đối, xẻ 2 – 3 lần lông chim, dài đến 1,5 m, tập trung ở ngọn thân. Lá chét hình bầu dục, nguyên, dài 6,5 – 14 cm, rộng 3,5 – 8 cm. Gốc tròn, hơi lệch, đầu nhọn, mặt dưới nhẵn hoặc hơi có lông. Cuống lá kép hình trụ, mập.

Cụm hoa mọc ở ngọn thân thành chùm, cuống mập, thẳng, dài 40 – 80 cm, mang nhiều sẹo rõ ở phía dưới. Lá bắc nhỏ. Hoa to màu nâu đỏ sẫm, dài hình chuông, hơi phình ở bọng. 5 cánh hoa hàn liền chia 2 môi, mép nhăn nheo có răng cưa, cong gập xuống. Nhị 5 (4 cái đều và 1 cái hơi ngắn hơn), chỉ nhị có lông mịn ở gốc, bầu thuôn, dài.

Quả nang, dẹt và cong, dài 50 – 80 cm, rộng 5 – 7 cm, khi chín nứt làm 2 mảnh. Hạt rất nhiều hình bầu dục, cứng, có cánh mỏng bao quanh.

1.2. Phân bố

Núc nác thuộc loại cây gỗ mọc nhanh, thường thấy ở ven rừng núi đá vôi, rừng thứ sinh, đất sau nương rẫy và dọc theo hai bên bờ thượng nguồn các dòng sông (Hồng, Chảy, Gâm…). Cây ưa mọc trên đất tơi xốp có tầng đất mặt sâu, dễ thấm nước. Tại các tỉnh miền Trung, Núc nác mọc được ở cả trên loại đất pha cát của vùng ven biển. Cây có khả năng chịu hạn và chịu nóng tốt.

Khi bị cháy rừng, cây có thể tồn tại do có lớp vỏ thân dày và hệ thống rễ phát triển. Núc nác hoa quả hằng năm, tuy nhiên tỉ lệ hoa đậu quả chỉ khoảng 10 – 30%. Hạt Núc nác có cánh màng, phát tán xa nhờ gió. Tuy nhiên, chỉ có một số ít hạt nảy mầm khi rơi được xuống mặt đất; còn phần lớn bị mắc trên cành cây hoặc đám cỏ không có cơ hội nảy mầm. Phần gốc thân khi bị chặt có thể tái sinh cây chồi.

Nguồn Núc nác ở Việt Nam tương đối dồi dào. Các tỉnh có trữ lượng lớn hiện nay là Hà Giang, Yên Bái, Tuyên Quang, Hòa Bình, Thanh Hóa…

2. Thu hái và bào chế

2.1. Thu hái

Vỏ thân và hạt. Vỏ thân thu hái khi cần thiết, phơi khô hoặc cạo lớp vỏ sần rồi thái phiến dài 2 – 5 cm, dày 1 – 3 mm phơi khô. Khi dùng để nguyên hoặc sao nhỏ lửa cho vàng. Hạt thu hái ở quả núc Nác chín vào mùa thu đông, phơi khô.

2.2. Bào chế

Khi dùng có thể trích với muối ăn (Núc nác 10 kg, Muối ăn 400 g, nước sôi để pha vừa đủ). Ngâm tẩm Núc nác với nước muối trong 30 phút cho ngấm hết muối, rồi dùng lửa nhỏ sao cho có màu đen.

3. Thành phần hoá học

Vỏ và hạt chứa một hỗn hợp flavonoid và chất đắng kết tinh là oroxylin. Vỏ chứa baicalein và chrysin. Hạt cũng chứa oroxylin và một chất dầu chứa 80,40% acid oleic, acid palmitic, acid stearic và acid lignoceric. Vỏ rễ chứa chrysin, baicalein, biochanin-A, và acid ellagic. 

4. Tác dụng dược lý

Một trong các thành phần chính của Núc nác là Oroxin A. Oroxin A là một hợp chất có độc tính thấp đã làm giảm 66,7% nguy cơ tiến triển từ tiền tiểu đường sang tiểu đường mà không gây tăng cân hoặc nhiễm độc gan. Oroxin A cũng cải thiện các biến chứng của tiền tiểu đường, chẳng hạn như rối loạn chuyển hóa lipid và chấn thương gan. Nó cũng thể hiện một hoạt động ức chế chống lại α-glucosidase và khả năng chống oxy hóa.

Vỏ rễ Núc nác cho thấy hoạt động bảo vệ tim mạch rõ rệt, có thể là do sự hiện diện của các hợp chất chống oxy hóa hoạt động hiệp đồng.

Chiết xuất Núc nác bảo vệ tế bào thần kinh của con người – tế bào SH ‑ SY5Y chống lại β‑amyloid gây ra tổn thương tế bào.

5. Công dụng và liều dùng

5.1. Công dụng

Hạt dùng trị: viêm họng cấp và mạn tính, khan cổ; viêm phế quản cấp và ho gà; đau vùng thượng vị, đau sườn.

Vỏ được dùng trị: viêm gan vàng da, viêm bàng quang, viêm họng, khô họng, ho khan tiếng, trẻ em ban trái, sởi. Nó cũng dùng chữa dị ứng sơn, trị bệnh vẩy nến, hen phế quản trẻ em.

Ở Ấn Độ, người ta dùng vỏ rễ trị tiêu chảy, lỵ, vỏ thân làm thuốc bổ đắng và trị tê thấp cấp tính. Quả non lợi trung tiện và lợi tiêu hoá. Hạt để xổ và làm thuốc trị rắn cắn.

5.2. Liều dùng

Liều dùng: 1,5 – 3 g hạt, 15 – 30g vỏ, dạng thuốc sắc. Có thể nấu thành cao hay chế dạng bột. Dùng ngoài nấu nước rửa hoặc dùng cao bôi.

6. Bài thuốc kinh nghiệm

Ho lâu ngày: 5 – 10 g hạt, sắc nước hoặc tán bột uống.

Lở do dị ứng sơn:

vỏ Núc nác nấu cao, dùng uống và bôi vào chỗ lở.

Tóm lại, Núc nác có công dụng chữa viêm gan vàng da, giúp thanh nhiệt giải độc, trị mẩn ngứa, chữa viêm phế quản. Những thông tin trong bài viết trên chỉ mang tính chất tham khảo. Khi muốn sử dụng thuốc, bạn cần phải hỏi ý kiến bác sĩ điều trị.

Bác sĩ Nguyễn Trần Anh Thư

Cập nhật thông tin chi tiết về Cây Núc Nác Trị Bệnh Gì Những Cách Dùng Đúng Nhất Nên Biết trên website Duhocaustralia.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!