Xu Hướng 11/2023 # Bài 2: Phân Lân Và Sự Phân Loại Lân (Tiếp Theo Và Hết) # Top 19 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Bài 2: Phân Lân Và Sự Phân Loại Lân (Tiếp Theo Và Hết) được cập nhật mới nhất tháng 11 năm 2023 trên website Duhocaustralia.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Các nhà nghiên cứu chú ý vận dụng vai trò của vi sinh vật phân giải lân vô cơ theo một hướng khác. Nhờ phát hiện được các giống có khả năng phân giải lân vô cơ mạnh nên có triển vọng dùng các dòng này để thay thế vai trò của axit và nhiệt chuyển lân vô cơ khó tiêu thành dạng dễ tiêu để sản xuất phân lân. Nguyên lý cơ bản củ giải pháp này là dùng hỗn hợp hữu cơ tươi như bã mía, rỉ đường làm nguồn gốc cung cấp năng lượng cho hoạt động của vi sinh vật phân giải photphorit hay apatit (thường là các photphorit mềm, hợp chất lân dễ phân giải) thành dễ tiêu hơn. Các nhà nghiên cứu còn hi vọng rằng quá trình lên men có thể tạo ra các chất điều hòa sinh trưởng, chất diệt nấm, cố định đạm nên tên là phân lân hữu cơ vi sinh.

Đây là vấn đề mới. Khó khăn cơ bản là có dòng vi khuẩn có khả năng phân giải nhanh và sự cung cấp đủ chất hữu cơ cho quá trình lên men, bảo quản phân cho đến lúc sử dụng không mất chất dinh dưỡng và giữ được số vi sinh vật trong phân theo đúng quy định. Phân cần đảm bảo yêu cầu tối thiểu của một loại phân lân chế biến công nghiệp có tỷ lệ P2O5 trong phân lân ít nhất là trên 10 % với 80 % lân hữu hiệu.

Hệ số sử dụng lân của cây trồng rất thấp. Hệ số sử dụng biểu kiến chỉ đạt tối đa 30%. Tăng hệ số sử dụng thêm khoảng 10% nữa hết sức khó khăn. Cho nên các quy trình sử dụng phân lân vi sinh không nên đưa ra các mức bón quá thấp so với quy trình hướng dẫn khuyến nông. Ví dụ quy trình khuyến nông hướng dẫn bón cho cây lúa là 60 kg P2O5/ha thì các quy trình khuyến nông sử dụng phân vi sinh ít nhất cũng đảm bảo cung cấp cho cây ít nhất 90% số đó, 54 kg P2O5 / ha/vụ.

Cần đảm bảo đủ đạm cho cây phát triển. Các loại phân hữu cơ vi sinh, khó có khả năng tăng lượng đạm trong đất nhiều cho nên các quy trình sử dụng phân lân hữu cơ vi sinh nên đảm bảo bón đủ đạm cho cây, ít nhất 80 % số lượng đạm cần bón theo quy trình hướng dẫn khuyến nông. Ví dụ quy trình hướng dẫn nên bón 120 kg/ha/vụ cho lúa chiêm xuân ở vùng đồng bằng bắc bộ thì tổng số lượng đạm đưa vào cho cây lúa nếu sử dụng phân lân hữu cơ vi sinh cần đạt ít nhất là 96 kg N/ha/vụ.

Sự phối hợp với các loại phân khoáng (phân đạm, lân, kali) thích hợp, đảm bảo đủ để cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng là điều kiện quan trọng để phát huy được hiệu quả. Một hình thức phối hợp giữa phân lân hữu cơ vi sinh và phân khoáng như vậy nếu chi phí bón phân không vượt quá xa quy trình đang được áp dụng có thể được nông dân chấp nhận và sẽ rất có ích cho vùng đất cát biển, đất bặc màu những nơi thiếu hữu cơ nghiêm trọng và hoạt động của vi sinh vật yếu. Đó là bài toán khó khăn mà các nhà sản xuất phân lân hữu cơ vi sinh đang phải tiếp tục giải để có thể đứng vững.

Hiện nay có nhiều nhà sản xuất phân lân hữu cơ vi sinh như phân lân hữu cơ Thiên Nông, phân lân sinh hóa hữu cơ Komix của công ty sinh hóa nông nghiệp và thương mại thiên Sinh, phân sinh hóa hữu cơ Biomix của công ty phân bón hóa chất Kiên Giang, Biofer của Hội phân bón Việt Nam… đều sản xuất phân lân hữu cơ vi sinh.

Một loại phân lân khác gọi là Biosuper (phân lân super vi sinh) được sản xuất bằng cách trộn photphorit với các sản phẩm có chứa lưu huỳnh như than bùn sú vẹt hoặc đất có chứa lưu huỳnh thấp vùng mỏ lưu huỳnh (thiobacillus, thiooxidant). Loại vi sinh vật này oxy hóa S thành axit sunfuric, dựa vào axit tạo ra để chuyển lân khó tiêu thành dạng dễ tiêu. Các nhà sản xuất Australia và Canada đã sản xuất theo cách này và đưa ra thử nghiệm rộng rãi. Kết quả thử nghiệm cho thấy nguyên liệu sử dụng cần chứa lượng S đáng kể đủ để chuyển hóa các quặng lân khó tiêu. Hàm lượng lân trong sản phẩm thấp, hiệu lực không bằng supe lân và họ cho rằng các sản phẩm kiểu này có thể sử dụng tốt cho đồng cỏ hoặc đất khai hoang để phục hồi đất hoang và sử dụng cho các nước đang phát triển mà công nghiệp phân bón chưa phát triển.

5. Chọn loại phân lân như thế nào?

Các loại phân lân được chia thành 3 nhóm chính;

1/ Các loại dễ hòa tan bao gồm các nhóm lân chế biến bằng axit, lượng axit sử dụng đến mức tạo thành các photphat 1 canxi dễ tan trong nước. Tùy mức axit thừa 1-3% axit photphoric mà có mang tính chua nhiều hay ít. Do có còn một ít axit nên phân dễ hút ẩm. Các loại phân này thích hợp nhất ở các loại đất kiềm và trung tính vì phân có khả năng làm giảm độ kiềm của đất và tồn tại ở dạng cây dễ sử dụng. Ở các loại đất quá kiềm hoặc quá chua nhất là các đất quá chua sử dụng loại phân này (trừ đất lúa) nên dùng các loại phân viên. Nhờ được viên nên phân ít tiếp xúc với các nhân tố trong đất (canxi ở đất kiềm, sắt nhôm dễ đông ở đất chua và các keo đất mang dấu hiệu dương trong đất chua) làm giảm độ hòa tan.

Các loại phân lân giàu và rất giàu chứa ít lưu huỳnh ở dạng canxi sunfat thích hợp cho đất mặn chua ven biển giàu sunfat, đất trũng lầy thụt nhiều hữu cơ yếm khí. Trên 2 loại đất này, lưu huỳnh có thể làm tăng ion sunfat đến mức gây ngộ độc (đất mặn sunfat) hoặc làm tăng lượng H2S gây độc (đất lầy thụt yếm khí trồng lúa).

Supe lân thông thường có lợi cho đất thoái hóa, bạc màu, nghèo hữu cơ, nghèo lưu huỳnh, đất cát, thâm canh không có điều kiện hoàn trả hữu cơ; đất đồi thoái hóa, do cả hai mặt: cung cấp P và S. Nó cũng có lợi cho các cây cần nhiều S cây họ thập tự, họ hành tỏi, cây lấy dầu thuộc họ lạc, đậu đỗ, cau dừa chúng tôi các loại cây họ chè (chè, cà phê, ca cao) và cây lấy mủ.

2/ Các loại phân ít hòa tan và khó hòa tan thường rất hữu hiệu đối với các loại đất chua, giàu hữu cơ và sét dễ làm cho lân trong phân chuyển thành dạng khó tan.

Chỉ các loại đất có độ chua cao pH KCl< 5 và thành phần cơ giới của đất từ thịt trung bình trở lên đến thịt nặng và sét mới nên sử dụng các loại quặng tự nhiên khó tan như apatit và photphorit. Các loại phân lân ít hòa tan (không tan trong nước chỉ tan được trong axit citric 2%) như các loại phân lân axit hóa một phần (phân lân chậm tan), các loại phân lân chế biến bằng nhiệt (phân lân nung chảy) hiệu quả trên đất trung tính hoặc ít chua không kém supe lân nhưng trên đất chua càng phát huy được ưu điểm khử chua và sắt nhôm di động.

Sự cung cấp điều hòa lân trong giai đoạn đầu và giai đoạn cuối của cây trồng rất có lợi cho cây vì vậy sự phối hợp với tỷ lệ thích hợp khoảng 70% phân lân ít hòa tan có lợi cho mọi trường hợp.

Các loại phân lân chế biến bằng quy trình nhiệt thường giàu canxi, magie, natri có khi có cả kali và vi lượng thường có lợi cho đất cát, đất bặc màu, đất đồi thoái hóa. Trên các loại đất này cũng thường thiếu lưu huỳnh và kali. Sự phối hợp các loại phân này với supe lân hoặc kali sunfat, amon sunfat nên được chú ý.

3/ Các loại phân được gọi là phân lân sinh hóa hữu cơ, nhiều chất hữu cơ hơn là lân. Đối với đất thiếu lân dễ tiêu cần được bổ sung thêm cho đủ lượng lân dễ tiêu cần thiết. Loại phân này có triển vọng tốt cho các loại đất cát, đất bạc màu, đất thoái hóa thiếu hữu cơ.

Các loại phân lân có chứa N như DAP được nông dân vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, đặc biệt vùng thấp Đồng Tháp mười, Hậu Giang chú ý vì hai lý do:

– Đất thiếu lân dễ tiêu đến mức hạn chế trong lúc hữu cơ và đạm có trong đất tương đối khá. Đất tuy giàu đạm nhưng thiếu N dễ tiêu. Tỷ lệ 46 – 50% P2O5 và 18 – 20% N (tỷ lệ N-P:1-2,5) trong phân thích hợp cho loại đất như vậy với lúa năng suất trung bình.

– Sự không có mặt gốc sunfat không độc hại do mặn sunfat và H2S trên đất vốn giàu ion sunfat này. Tuy nhiên trên loại đất này sử dụng phân lân nung chảy kết hợp với ure tỷ lệ 1,5 -1 cho lúa năng suất cao có lẽ lợi hơn vì hỗn hợp này còn khử chua và cố định sắt nhôm di động, giảm bớt độc và xúc tiến sự phân giải hữu cơ cung cấp thêm đạm. Nếu đất trồng trọt lâu ngày, tỷ lệ mùn và N đã suy giảm, dùng DAP cần bổ sung thêm cho đủ đạm. Trong trường hợp này dùng ure kết hợp với supe lân hay lân nung chảy chi phí sử dụng phân bón sẽ ít hơn.

Giới thiệu các loại phân lân * Phân lân chế biến bằng axit – Supe lân:

+ Loại thông thường: 16 – 24% P2O5 tan trong amon xitrat 2%; 8-12%S; 28% CaO

Thể tích riêng: viên 107 – 124 dm3/100 kg phân bột 106 -122dm3/100 kg

+ Loại giàu: 25 – 36 % P2O5 tan trong amon 2 % xitrat 6 – 8% S; 20 % CaO

+ Loại rất giàu: 36 – 38% P2O5 tan trong amon xitrat 2 %; 15% CaO lưu huỳnh không đáng kể.

Thể tích riêng: viên 105 – 120 dm3/100 g

– Phân Metaphotphat canxi: 64 – 70% P2O5 tan trong amon xitrat 2 %

– Metaphotphat kali: 40 – 60% P2O5 tan trong amon xitrat 2%

– Phân lân kết tủa: 28 – 42% P2O5 tan trong xitrat amon 21%

– Phân DAP: 18 – 20% N; 46 – 50 % P2O5 tan trong amon xitrat 2%

Thể tích riêng 90 – 110 dm3/ 100 kg.

* Phân lân chế biến bằng quy trình nhiệt Phân lân nung chảy Văn Điển                                    

+ Loại giàu: 20% P2O5 tan trong axit xitric 2%; 15% MgO; 32% CaO & SiO2: 24%; Thể tích riêng 67 – 71 dm3/100kg.

+ Loại trung bình: 17,5 – 18,5 % tan trong axit xitric 2%; 30 – 36% CaO; 15 – 17 % MgO; 24 – 30% SiO

Thể tích riêng 67 – 70 % dm3/100 kg

+ Loại thấp: 15 % tan trong axit xitric; 28 – 32 % CaO; 17 – 20% MgO    ; 24 – 30% SiO2.

– Photphan: 34% tổng số 26 % tan trong amon xitrat

– Photphat khử fluo

+ Loại giàu: 30 – 32% P2O5

+ Loại trung bình: 26 % tan trong amon xitrat

– Photphat cứt sắt: 14 – 22 % P2O5 tổng số; 10,5 -20% P2O5 tan trong axit xitric 2%

* Các loại quặng tự nhiên chứa lân – Photphorit thành phần rất thay đổi theo mỏ: 10 – 31% P2O5 tổng số.                – Apatit Lào Cai                                                              

+ Loại trung bình 23 – 31 % P2O5 tổng số

+ Loại nghèo < 23% P2O5 tổng số

Sưu tầm và biên tập Ks Lê Minh Giang

Bài 2: Phân Lân Và Sự Phân Loại Lân (Tiếp Theo)

2.3. Một số loại khác ít phổ biến.

* Phân lân ở dạng nước.

Đó là hỗn hợp các axit photphoric như axit octophotphoric H3PO4, axit pyrophotphoric H4P2O7, axit triphotphoric H5P3O10, axit tetraphotphoric H6P4O10… Sản phẩm chứa đến 75 – 79% P2O5.

* Photphin. Là hỗn hợp các photphua hydro hóa lỏng nước ở nhiệt độ – 88oC và chuyển sang thể rắn ở nhiệt độ -134oC. Phân có chứa đến 91% P.

Các photphua thường dùng là H3P, H6P12 và H4P2.

3. Các loại phân lân tự nhiên.

Đó là loại quặng khai thác từ các mỏ dùng làm phân bón. Các mỏ này có nguồn gốc do núi lửa phun ra tạo thành hoặc do lân tích đọng ở đáy biển tạo thành. Lân trong các loại quặng này đều là các hợp chất photphat canxi có chứa gốc Cl–, F–, OH– hay CO32- . Tùy theo thành phần hợp chất, nguồn gốc thành tạo mà phân làm hai loại apatit và photphorit. Apatit phần lớn có nguồn gốc phún xuất và có cấu trúc tinh thể hoặc vi tinh thể và cũng khó phá vỡ, khó dùng để bón trực tiếp. Apatit Lào Cai cũng thuộc về loại này. Các loại quặng nguồn gốc trầm tích, cấu trúc vô định hình, dễ phá vỡ có thể dùng để bón trực tiếp gọi là photphorit. Các loại này thường lẫn lộn với đất có nhiều chất hữu cơ và tỉ lệ Fe, Al cao.

3.1. Photphorit.

Photphorit sử dụng ở các nước EU đều lấy từ các mỏ của Bắc Phi, Mỹ, canada, SNG. Mỏ này nhỏ trữ lượng ít hàm lượng lân thấp. Trong các hang núi đấ vôi ven bờ biển (Còn gọi là phân lèn). Các núi đá này rải rác ở các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Bắc Thái, Hòa Bình, Ninh Bình, Nghệ An, Quảng Bình. Tính chất các loại này gần giống photphorit Vĩnh Thịnh.

Cần phân biệt phân lèn là photphorit chính cống với loại phân cũng lấy được từ trong hang đá nhưng là xác của phân dơi, chim chóc sống lâu trong hang đá để lại. Loại phân này là một loại phân đặc biệt giàu chất dinh dưỡng rất tốt, dùng như các loại phân hữu cơ nhiều yếu tố N, P, K và vi lượng khác hẳn photphorit thông thường.

Chất lượng của photphorit được đánh giá theo các tiêu chuẩn sau:

– Tính chất vật lý- xốp nhẹ.

– Tính chất hóa học: Lân tổng số và lân tan trong axit citric cao, tỷ lệ CaO cao và tỷ lệ P2O3 thấp, hàm lượng fluo thấp.

Chất lượng photphorit thay đổi rất nhiều tùy nơi khai thác. Các loại photphorit của Maroc, Angieri, Mỹ, Canada chất lượng tốt được nghiền bón trực tiếp và có tín nhiệm trên thị trường. Photphorit ở mỏ Vĩnh Thịnh và các núi đá vôi nhiều sắt nhôm, tỷ lệ lân thấp thay đổi rất nhiều tùy nơi khai thác. Hàm lượng P2O5 tổng số thay đổi từ 10-31% P2O5.

Ưu điểm chính của bột photphorit là có khả năng khử chua, hiệu lực lâu dài trong nhiều vụ.

Nhược điểm chính là không phải đất nào, cây nào bón photphorit cũng có hiệu lực. Ở đất trung tính và ít chua, photphorit chỉ có hiệu lực rõ đối với một số cây họ đậu và cây phân xanh, cây họ thập tự.

Ở đất chua pH< 5,5 hiệu lực của photphorit mới rõ. Đất càng chua hiệu lực càng rõ. Hiệu lực photphorit rõ nhất ở các chân ruộng trũng, lầy thụt giàu hữu cơ.

3.2. Apatit.

Apatit phần lớn là các mỏ thành tạo có nguồn gốc phún xuất, nhưng cũng có mỏ có nguồn gốc trầm tích. Mỏ apatit Lao Cai thuộc loại sau.

Quặng loại 3 được làm giàu để sản xuất supe lân. Quặng loại hai dùng để sản xuất phân lân nung chảy.

Trong 3 loại quặng, quặng 1 có cấu trúc tinh thể, ít bền chặt, dễ phá vỡ, có thể nghiền bón trực tiếp, nhưng hàm lượng P2O5 cao nên dùng để sản xuất supe lân và xuất khẩu. Quặng loại 3 có hàm lượng P2O5 thấp có thể dành nghiền bón trực tiếp nhưng tinh thể khá bền vững, hiệu lực kém hơn.

Hiệu lực các loại phân bón khó tan dùng bón trực tiếp phụ thuộc vào sự tiếp xúc của các phân với đất và rễ cây. Dựa vào axit do rễ cây tiết ra và dựa vào độ chua của đất mà các loại phân khó tiêu trở thành dễ tiêu. Cây có thể sử dụng được. Các biện pháp chính để làm tăng hiệu quả các loại phân lân này là:

– Nghiền mịn: Độ mịn càng cao càng có hiệu quả. Phân phải có độ mịn đạt 20% qua rây 0,25 mm mới có thể làm tăng năng suất khá. Nếu giá thành cho phép tốt nhất là 100% qua rây 0,10 mm.

– Bón sớm: các loại phân lân khó tan chỉ có thể bón lót. Bón tập trung theo hàng hoặc hàng cây tốt hơn bón vãi ra ruộng vì phân dễ tiếp xúc với cây hơn. Trong trường hợp dùng với lượng lớn để vừa cải tạo độ chua vừa cung cấp cho cây mới nên bón vãi và cày bừa trộn đều trong toàn tầng đất canh tác.

– Ủ với phân chuồng để lợi dụng chất chua khi chất hữu cơ phân giải. Trộn photphorit với các loại phân vô cơ có khả năng gây chua như amon sunfat, amon clorua hay các loại phân Kali cũng có tác dụng làm tăng hiệu lực của phân.

Cũng như các loại phân ít hòa tan, sự phối hợp phân lân khó tiêu với các loại phân lân dễ tiêu thường có tác dụng tốt. Nhà máy supe lân Long Thành đã có sáng kiến xuất loại supe lân PA bằng cách trộn supe lân sau khi ủ 5 ngày với bột đá xà vân và bột apatit hoặc bột phophorit. Loại phân này có tác dụng giống như các loại phân snr xuất theo quy trình chậm tan.

Lượng bón các loại phân khó tiêu nên cao hơn supe lân 1,5 – 2 lần.

4. Phân lân vi sinh:

Lân trong đất thường tồn tại dưới hai dạng:

Các hợp chất lân vô cơ và các hợp chất lân hữu cơ. Lân hữu cơ chiếm khoảng 25 – 50 % tổng số lượng lân trong đất tùy thuộc lượng hữu cơ và mùn trong đất nhiều hay ít. Ở đất mới khai phá, đất vùng ôn đới, mùn nhiều, lân hữu cơ rất cao. Khi có nhiệt độ thích hợp, không quá thấp các vi sinh vật phân giải chất hợp chất hữu cơ chứa lân thành lân vô cơ cung cấp cho cây. Nhiệt độ dưới 20 oC, hoạt động này ngừng lại, cây trồng sử dụng lân chủ yếu dưới dạng vô cơ chứa sẵn trong đất. Khi nhiệt độ từ 35oC trở lên sự giải chất hữu cơ rất mạnh nguồn cung cấp lân dựa nhiều vào lân hữu cơ phân giải ra.

Quá trình phân giải lân hữu cơ có sự tham gia của một loại vi sinh vật đặc biệt gọi là vi sinh vật phân giải lân hữu cơ (Bacillus megatherium phosphaticum). Để tăng cường sự phân giải lân hữu cơ trong đất người ta đã tuyển chọn các dòng có khả năng phân giải mạnh bổ sung thêm vào đất. Đó là các loại phân vi sinh vật phân giải lân hữu cơ. Loại phân vi sinh vật phân giải lân hữu cơ này chỉ có hiệu quả trên đất ôn đới giàu hữu cơ. Đất vùng nhiệt đới nghèo hữu cơ và mùn ít có triển vọng.

Trong đất cũng có các loài vi sinh vật chuyển hóa các dạng lân vô cơ khó tiêu thành dạng lân vô cơ dễ tiêu. Loại vi sinh vật phân giải lân vô cơ khó tiêu này tìm thấy nhiều ở chung quanh rễ các loại cây họ đậu, rễ bèo dâu, rễ lúa các dòng kháng thiếu lân. Người ta cũng đã thử sử dụng các dòng vi khuẩn này để sản xuất phân vi sinh vật phân giải lân vô cơ bón vào đất. Tuy nhiên các dòng vi khuẩn này chỉ có thể phân giải canxi photphat mà trong đất nhiệt đới chứa lân vô cơ khó tiêu tồn tai dưới dạng sắt photphat và nhôm photphat là chính. Vì vậy triển vọng của phân vi sinh vật phân giải lân vô cơ ở đất nhiệt đới chua cũng không có gì là hấp dẫn.(Còn nữa)

Sưu tầm và biên tập: Ks Lê Minh Giang

Bài 2: Phân Lân Và Sự Phân Loại Lân

PHÂN LÂN VÀ SỰ PHÂN LOẠI LÂN:

Sự phân loại lân dựa theo độ hòa tan của chúng:

1/ Phân lân hòa tan trong nước: supe lân (SP), điamôn photphat (DAP)

2/ Phân lân ít hòa tan trong nước, chỉ hòa tan trong axit yếu như axit xitric 2 % axit foomic hay xitrat amôn, phân lân nung chảy TP, photphat cứt sắt (còn gọi là Toomat sowlac), photphan, phân lân kết tủa (dicanxi phôtphat) và phân lân chậm tan (phân lân axit hóa một phần).

3/ Phân lân khó tan. Đó là các loại quặng tự nhiên khai từ mỏ lên đem nghiền để bón trực tiếp như apatit, photphorit, bột xương động vật…

Người ta còn phân loại theo quá trình chế biến:

1/ Phân lân tự nhiên: là sản phẩm khai thác từ các mỏ, nghiền bột đem sử dụng, không qua quá trình chế biến. Phần lớn phân lân tự nhiên là phân khó hòa tan: apatit photphorit, vivianit.

2/ Phân lân chế biến bằng axit. Có hai loại:

 – Hòa tan trong nước: supe lân, điamôn photphat.

 – Hòa tan trong axit yếu: phân lân kết tủa, phân lân chậm tan.

3/ Phân lân sử dụng nhiệt năng để chuyển hóa: Các loại phân lân nung chảy và phân lân cứt sắt.

1. Các loại phân lân điều chế bằng axit. 1

.1. 

Supe lân.

Supe lân là loại phân lân được sản xuất bằng cách cho tác động axit sunfuric với apatit. Lượng axit được tính toán thế nào để chuyển hết apatit thành canxi photphat. Trên thị trường có 3 loại supe lân:

– Loại supe lân thông thường: Loại này điều chế bằng cách cho tác động photphat tự nhiên với axit sunfuric, tạo thành monocanxi photphat và thạch cao. Tỷ lệ thạch cao chiếm 50%. Tùy theo hàm lượng lân trong quặng apatit mà tỷ lệ lân trong phân thay đổi từ 16 – 24 % P2O5 tan trong a môn xitrat trong đó có đến 90 % tan trong nước, ngoài ra có từ 8 – 12 % và khoảng 28 % CaO ở dạng CaSO4, một ít vi lượng như Fe, Zn, Mn, Bo, Mo.

– Loại supe lân giàu: là loại supe lân điều chế từ apatit tác động bởi hỗn hợp axit sunfuric và photphoric. Tùy theo tỷ lệ giữa axit sunfuric và axit photphoric mà có chứa 25 – 35 % P2O5 hòa tan trong a môn xitrat. Lượng CaSO4 còn lại ít hơn trong supe lân, chứa từ 6 – 8% S và khoảng 20 % CaO..

– Loại supe lân rất giàu: Được sản xuất bằng cách cho tác động axit photphoric với apatit có chứa từ 36 -38% P2O5 tan trong amôn xitrat.

Trong quặng apatit có chứa Fe, Al và các vi lượng nhiều ít tùy quặng. Axit sunfuric cũng kết hợp với Fe, Al tạo thành sufat sắt hay sunfat nhôm.

Trước đây người ta cho rằng lân tan trong nước càng nhiều chất lượng supe lân càng cao nên sản xuất supe lân thường dùng thừa một ít axit tạo thành axit photphoric, để cho trong khi cất trữ supe lân, lân hòa tan trong nước không chuyển ngược lại thành lân ít hòa tan. Vì vậy, supe lân thường chua. Lượng axit càng cao, supe lân càng dễ hút ẩm, ướt nhão. Thông thường tỷ lệ axit trong phân không nên quá 5% và độ ẩm dưới 13%. Từ khi người ta nhận thấy rằng không nhất thiết lân phải hòa tan trong nước nhiều cây mới dễ sử dụng, các nhà sản xuất phân supe lân giảm bớt số axit sử dụng, phân có chứa hai canxi phôtphat nhiều hơn, phân không chua ít hút ẩm và tơi rời hơn.

Tùy theo nguyên liệu sử dụng mà supe lân có màu xám trắng hay xám xẫm. Trên thị trường thường trình bày dưới hai dạng: Dạng supe lân bột và dạng supe lân viên. Do lân trong supe lân dễ hòa tan, khi bón vào đất dễ bị các nhân tố trong đất chuyển thành dạng cây khó sử dụng. Việc phân supe lân vò thành viên nhằm giảm hiện tượng này làm cho hiệu quả supe lân cao hơn.

Như vậy hai mặt mạnh của supe lân là:

– Dễ hòa tan, hiệu quả nhanh hơn các loại phân lân khác.

– Có chứa S.

Mặt mạnh thứ hai gần đây mới bắt đầu nhận thức hết. Nếu liên tục bón nhiều phân đã bị tẩy bớt lưu huỳnh như loại supe lân rất giàu điều chế từ axit photphoric trong nhiều năm thì sự thiếu S ngày càng thể hiện rõ nét. Trong tương lai S được xem là yếu tố phân bón thì supe lân nên được xem là loại phân có hai yếu tố.

Vì hàm lượng lân trong supe lân và hàm lượng S trong phân thay đổi rất lớn tùy theo chất lượng quặng và qui trình sản xuất nên phân lân trên thị trường cần được ghi ít nhất hàm lượng của lân hòa tan trong a môn xitrat và hàm lượng S tổng số. Ghi rõ hàm lượng CaO và các vi lượng khác của phân là điều nên làm.

Trên thương trường còn có loại phân supe được sản xuất từ axit xitric, hoặc hỗn hợp axit xitric và axit sunfuric. Sản phẩm là các nitrophotphat có hàm lượng N và P2O5 khác nhau. Tùy theo tỷ lệ giữa N và P mà nó được sư dụng như phân lân hay phân đạm (sẽ trình bày ở dạng phân phức).

Nhà máy supe lân Lâm Thao Vĩnh Phú và nhà máy supe lân Long Thành chủ yếu sản xuất phân supe lân. Supe lân Lâm Thao có chứa 16,5% P2O5 tan trong xitrat amôn 11,2%,  22-23% CaO và có chứa ít hơn 4 % axit sự do.

Vì nước ta, diện tích trồng lúa rất lớn, sản xuất phân lân chủ yếu là để bón cho lúa nên cả hai nhà máy supe lân Lâm Thao và Long Thành đều chưa trang bị dây chuyền để sản xuất supe lân viên. Chắc rằng sản xuất phân viên sau này sẽ được chú ý, vì trên đất laterit chua, hiệu quả của phân viên sẽ cao hơn và bền hơn phân bột rất nhiều.

Supe lân là loại phân rất quý cho đất trung tính, đất cacbonat và đất cà giang (đất kiềm do nhiều natri). Bón supe lân vào các loại đất này, lân cũng bị hấp phụ giữ lại do chuyển thành các dạng hợp chất lân giàu canxi, ít hòa tan hơn. Nhưng các hợp chất này về sau vẫn tiếp tục được cây sử dụng. Ở các loại đất có độ chua cao, nhiều sắt di động như đất chua, đất phèn, đất đồi laterit chua, đất trũng lầy thụt, supe lân dễ bị hấp phụ và giữ chặt trên keo đất hoặc chuyển thành các photphat Fe, Al. Lân bị giữ chặt theo kiểu này cây không còn sử dụng được nữa. Nhiều thí nghiệm trên đất đồi trồng hoa màu chua hiệu lực vụ sau của supe lân rất thấp còn trên đất phèn, nhất là sau khi đất bị xì phèn hiệu lực còn lại không còn gì nữa.

Sản xuất các loại supe lân viên hay các loại phân lân axit hóa một phần (dùng lượng axit ít hơn quy trình thông thường) cần được xem xét đến, vì hiệu quả phân sẽ cao hơn.

Trộn thêm các loại vi lượng vào supe lân rất có ích, vừa cung cấp thêm vi lượng hữu hiệu cho cây vừa làm tăng hiệu lực supe lân. Các vi lượng thường được chú ý là bo, molipđen, kẽm và mangan. Super lân dùng bón cho cây họ đậu nên chú ý trộn thêm magiê, mangan, molypđen và bo cho vùng trồng lúa nên chú ý đến kẽm và đồng. Những nhận xét đầu tiên của trung tâm nông nghiệp Đồng Tháp Mười cho thấy trên đất phèn nên chú ý trộn thêm bo. Nhà máy super lân Long Thành đã trộn thêm bột đá xà vân để có loại super lân M chứa 17% P2O5 tổng số, 14,2% P2O5 tan trong amôn xitrat và 3% MgO và lượng axit còn lại 1%.

Trong thành phần super lân có canxi sunfat. Ngoài tác dụng cung cấp S ra, canxi sunfat còn là chất để cải tạo đất kiềm do natri gây ra. Canxi trong CaSO4 đẩy Na ra khỏi keo đất và làm giảm độ kiềm của đất. Super lân có thể xem như là chất cải tạo đất kiềm có hiệu quả cao do tỷ lệ 50% CaSO4.

Trước đây do tính chất cải tạo kiềm này người ta lầm tưởng bón supe lân làm chua đất. Theo Gros nhiều thí nghiệm lâu năm chứng tỏ rằng ngay cả khi bón với liều lượng cao supe lân không ảnh hưởng đến độ chua của đất.

Phân supe lân phù hợp cho tất cả các loại đất, loại cây, có thể dùng để bón lót, lên mặt đất hoặc bón theo hàng theo hốc, có thể dùng để bón thúc, hòa nước để tưới và phun lên lá. Ở đất chua, hiệu lực supe lân có thể được tăng cường nếu đất được bón vôi.

Nông dân miền Bắc đã quen với tập quán ủ phân chuồng có thêm supe lân. Cách làm này làm cho hiệu lực phân lân tăng và làm giảm sự mất đạm khi ủ phân. (Còn nữa)

Sưu tầm và biên tập – Ks Lê Minh Giang

Cẩm Nang Phân Lân: Phần 2: Hướng Dẫn Thực Hành Sử Dụng Phân Lân

GS Võ Minh Kha, Hướng dẫn thực hành sử dụng phân bón, NXB Nông nghiệp, Hà Nội,1996.

1. Lân là yếu tố phân bón có thể xuất hiện nhu cầu ngay khi đã bón đủ đạm.

Trong đất, tùy theo nguồn gốc phát sinh có chứa một lượng lân nhiều hay ít đủ để cung cấp cho cây trồng khi năng suất còn thấp. Muốn đạt năng suất đó chỉ cần bón đạm là đủ. Đất mới khai hoang trừ một số trường hợp đặc biệt hiệu quả phân lân không rõ. Sau nhiều năm trồng trọt, không bón phân lân, lân trong đất nghèo dần. Năng suất cây trồng càng cao thì dự trữ lân trong đất càng tỏ ra không đủ để cung cấp cho cây. Sản phẩm lấy đi càng nhiều, lân trong đất càng nghèo cạn kiệt. Nhu cầu bón lân xuất hiện dần theo tình hình thâm canh phát triển.

Đó là tình hình phổ biến. Tuy vậy cũng có rất nhiều trường hợp đặc biệt ngay từ khi mới khai hoang, lân đã là yếu tố hạn chế năng suất. Đất mới khai hoang nhiều hữu cơ tươi, nhiều mùn có thể cung cấp nhiều đạm cho cây. Trên các loại đất này, cây thiếu lân hơn là thiếu đạm.

Ở nước ta hiện tượng này phổ biến ở các vùng đất thấp mới khai hoang châu thổ sông Hồng, châu thổ sông Cửu Long, vùng ven biển Đồng bằng Bắc Bộ, miền trung và Nam Bộ, vùng đát lũng núi Việt Bắc, Tây Bắc và Tây Nguyên v..v.. Ở các vùng này trồng lúa không bón lân không được thu hoạch.

2. Có khi lân là yếu tố hạn chế năng suất chứ không phải là đạm. Bón đủ lân mới có thể khai thác được dự trữ đạm trong đất.

Ở những vùng đất bình thường khác của Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long và phù sa sông miền Trung khi năng suất lúa còn dưới 2 – 5 t/ha/vụ hiệu quả phân lân nhiều chỗ chưa thể hiện rõ hoặc rất thấp nhưng muốn đạt từ 2 – 5 t/ha/vụ trở lên không thể không bón thêm lân.

Thiếu đạm, cây không phát triển thân lá, không tạo thành nhiều sinh khối – cơ sở hình thành năng suất. Thiếu lân sinh khối cũng không hình thành được. Cả đạm và lân chứ không phải riêng đạm như người ta thường hiểu lầm làm tăng sinh khối của cây. Nhầm lẫn càng lớn nếu nghĩ rằng lân kìm hãm sự phat triển sinh khối.

3. Sinh khối có phát triển mới có cơ sở cho thu hoạch cao. Tác dụng của lân đến hình thành sinh khối thể hiện ở nhiều mặt:

– Lân làm tăng sự phát triển của hệ rễ làm cho cây hút được nhiều nước, nhiều chất dinh dưỡng trong đất hơn.

– Lân cần cho sự hình thành tế bào mới, tạo chồi, tạo búp, phân cành ra lá mới.

– Cây đủ lân quang hợp mạnh, tạo thành đường bột, từ đó tạo thành protit, chất béo.

Từ sinh khối tích lũy được, các chất được vận chuyển để tạo thành sản phẩm thu hoạch. Quá trình phân giải, vận chuyển, tổng hợp lại ở sản phẩm thu hoạch chịu sự tác động của các men, mà lân là thành phần có ảnh hưởng đến. Tỷ lệ giữa phần được thu hoạch và sinh khối gọi là hệ số kinh tế. Bón đủ lân hệ số kinh tế cao, tiết kiệm sử dụng phân đạm.

4. Lân trong lương thực thực phẩm và thức ăn chăn nuôi cần cho sự phát triển và sức khỏe của người và gia súc.

Bệnh còi xương của người đặc biệt là trẻ em, của gia súc non, bệnh bất dục (đẻ con ít hoặc không sinh đẻ được) là do thiếu lân và canxi trong thức ăn. Tỷ lệ lân trong ngũ cốc, đậu đỗ, cỏ chăn nuôi thay đổi theo số lượng lân được bón cho cây.

Lân ảnh hưởng đến tỷ lệ bột trong hạt và củ, tỷ lệ đường trong cây lấy đường, tỷ lệ protein, tỷ lệ dầu béo (trong cây lấy dầu như lạc, dừa đào lộn hột, vừng..). Tỷ lệ dầu thơm (trong cây hương liệu, sả, hương nhu, hồi..) Tỷ lệ nhựa mủ (thông, cao su) và độ bền của sợi, màu sắc của củ quả. Cây bón đủ lân giàu vitamin b2 và một số tài liệu cho rằng làm giảm lượng nitrat tích lũy trong củ quả. Lân là yếu tố của chất lượng sản phẩm.

5. Khi cây ra hoa kết quả, lân từ các bộ phận khác vận chuyển và tích lũy về quả, hạt và hình thành các hợp chất lân hữu cơ dự trữ trong hạt.

Khi hạt nảy mầm các hợp chất lân này sẽ phân giải cung cấp cho quá trình hình thành tế bào mới của rễ và mầm non. Vì vậy cây bón đủ lân, hạt giống dễ bảo quản, tỷ lệ nảy mầm cao, cây non phát triển bụ bẫm. Lân là yếu tố cần được chú ý khi sản xuất hạt giống.

6. Sự cân đối giữa lân và đạm góp phần giữ vững chất lượng khi bón đạm nhiều để có năng suất cao.

Sự cân đối giữa lân và đạm cũng hạn chế sự tăng sâu bệnh hại khi tăng lượng bón đạm.

Tất cả những điều nói trên giải thích tại sao cần bón thêm phân lân khi bón tăng phân đạm.

7. Cần bón lân hay không còn tùy thuộc khả năng cung cấp lân của đất.

Hiệu quả phân lân phụ thuộc vào lượng lân trong đất. Biết hàm lượng lân tổng số (lượng lân ở tất cả các dạng cây sử dụng được hay không sử dụng được) trong đất không có ích nhiều cho việc xác định lượng bón lân. Có nhiều khi có nhiều mà cây không dùng được. Quyết định cần bón hay không là ở lân dễ tiêu trong đất nhiều hay ít.

8. Lân tồn tại trong đất dưới nhiều dạng hợp chất khác nhau.

Có hợp chất tan trong nước, có hợp chất chỉ tan trong axit yếu hay dung dịch muối trung tính, có hợp chất chỉ tan được trong axit mạnh. Các hợp chất chỉ tan trong axit mạnh cây không hấp thụ được gọi là lân khó tiêu. Nhờ có thể tiết ra các axit hữu cơ, hòa tan các hợp chất lân, nên cây có thể hút được cả các chất tan trong nước và cả các hợp chất chỉ tan trong axit yếu hoặc dung dịch muối trung tính. Phần lân này được gọi là lân dễ tiêu. Định cho đúng lượng lân dễ tiêu trong đất là vấn đề phức tạp. Nhiều người nghiên cứu, mà mỗi nhà nghiên cứu lại đề ra một phương pháp khác nhau. Điều đó cũng dễ hiểu. Mỗi nhà nghiên cứu chỉ nghiên cứu một số loại đất và loại cây nhất định và đưa ra các phương pháp phù hợp cho loại đất loại cây mà mình nghiên cứu. Cho đến nay vẫn chưa thể và có lẽ không bao giờ có thể thống nhất được một phương pháp phân tích lân dễ tiêu chung.

Các phòng phân tích nông hóa căn cứ trên tính chất đất, đặc điểm cây chọn một trong rất nhiều phương pháp phân tích lân dễ tiêu để phân tích và dựa trên số liệu để phân loại đất theo 4 nhóm:

+ Nhóm rất nghèo lân dễ tiêu.

+ Nhóm nghèo lân dễ tiêu.

+ Nhóm có lượng lân dễ tiêu trung bình.

+ Nhóm giàu lân dễ tiêu.

+ Căn cứ vào đó để định lượng lân cần bón.

Loại giàu không cần bón ngay. Sau một thời gian trồng trọt lâu dài, lượng lân dễ tiêu trong đất giảm đi mới cần bón. Loại trung bình cần bón bổ sung hàng năm để bù lại lượng mất đi hàng năm. Loại nghèo và rất nghèo không những phải bón bổ sung hàng năm mà còn phải bón nhiều hơn để tăng lượng lân dễ tiêu trong đất đến mức thích hợp.

Các dung môi rút tinh lân dễ tiêu để phân tích dùng cho một loại đất cần làm thế nào phù hợp với chất lân có trong loại đất đó. Các dung môi mà các nhà nghiên cứu đề xuất có thể phân biệt thành 3 nhóm:

– Các dung môi kiềm: Dùng dung dịch NaOH 0,1 N hay dung dich K 2CO 3 1%, (NH 4) 2CO 3 1%. Dung môi này phù hợp cho sự rút lân dễ tiêu ở đất giàu hữu cơ và mùn, đặc biệt các loại đất gọi là đất hữu cơ.

– Các dung môi axit: Dùng các axit mạnh như H2SO4, HCl với nồng độ rất thấp 0,1 N – 0,002 N. Dung môi này thường được dùng cho các loại đất ít hữu cơ, và trung tính ít chua.

– Các dung môi muối trung tính: Dùng các muối như NH 4Cl, NaCH 3 COO, NH 4F, K 2SO 4 ở nồng độ thích hợp. Các loại dung môi này thường dùng cho các loại đất ít hữu cơ, chua.

Trong tương lai bón lân cho cây trồng càng cần phải đẩy mạnh. Xem xét đất trồng, xác định nhu cầu bón lân và giúp nông dân định lượng cần bón là việc cần làm. Các nhà khuyến nông nên xây dựng bản đồ bón lân dựa theo phân tích lân dễ tiêu trong đất và căn cứ trên loại cây và năng suất mong muốn để hướng dẫn lượng lân cần bón. Bản đồ này vừa có tác dụng giúp cho các nhà quản lý nông nghiệp các nhà kinh doanh vật tư nông nghiệp có cơ sở dự toán số lượng lân cần cung ứng cho nông dân hàng năm. Các bản đồ này 3 – 5 năm làm lại một lần cho phù hợp với tính chất đất đã thay đổi.

9. Cây chỉ hút một phần lượng lân bón vào đất.

Tỷ lệ giữa lượng lân bón vào đất và lượng lân cây hút được gọi là hệ số sử dụng lân. Hệ số sử dụng lân của cây thấp hơn hệ số sử dụng đạm rất nhiều. Hệ số sử dụng đạm khoảng 50 % (có tác giả nghiên cứu còn đưa ra số liệu thấp hơn 40%) còn hệ số sử dụng lân chỉ khoảng 30%. Phần còn lại trong đất cây có thể sử dụng một phần cho vụ sau. Vì vậy, sau nhiều vụ bón lân nếu một vụ không bón sự hụt năng suất không rõ. Chính hiện tượng này làn cho nông dân không thể nhận rõ sự cần thiết của việc bón lân. Nhưng nếu thấy như vậy mà không bón lân, sau vài vụ lân dễ tiêu cung cấp cho cây sụt xuống quá mức giới hạn, năng suất sẽ bị ảnh hưởng.

10. Vấn đề cải tạo và nâng độ phì của đất về lân lên đến mức phù hợp có thực hữu ích hay không vẫn còn là vấn đề tranh cãi về cả hai khía cạnh tự nhiên và kinh tế.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng nên cải tạo độ phì của đất về lân, tạo một lượng lân dự trữ khá trong đất làm cơ sở, sau đó hàng năm bón bổ sung lượng mất đi. Các nhà nghiên cứu này thường gặp trên các vùng đất ít chua, đất nhẹ, đất giàu hữu cơ. Ở các loại đất này lân bón vào đất bị chuyển thành các dạng lân ít hòa tan (các dạng canxi photphat và các phức hợp lân – mùn) dễ được di chuyển trả lại cung cấp cho cây. Hiện tượng này còn được gọi là sự hấp phụ nhưng không giữ chặt hoặc giữ chặt rất yếu. Các kết luận mà các nhà nghiên cứu về lân trên đất phèn, trên đất laterit chua rút ra lại khác. Các loại đất này thường là giàu sét, có khi giàu hữu cơ, chua nhiều sắt, nhôm dễ hòa tan, dễ di động. Phân lân bón vào dễ chuyển thành dạng khó hòa tan tồn trữ lại trong đất. Fe, Al photphat và các ion photphat bị keo sét tích điện dương hấp phụ rất khó di chuyển trở lại để cung cấp cho cây. Đó là hiện tượng hấp phụ và giữ chặt lân. Phân lân dễ tiêu bón vào đất này rất nhanh chóng chuyển thành dạng khó tan, hiệu lực còn lại thấp. Trên vùng đất đỏ Tây Nguyên chỉ 2 đến 3 vụ sau hiệu lực còn lại của lân đã không còn rõ nữa. Trên đất phèn Đồng Tháp Mười có khi ngay vụ sau đã hết hiệu lực, thậm chí trên đất phèn nặng mới khai hoang, bón đầu vụ đến cuối vụ đã thấy thiếu lân.

Như vậy ngoài khía cạnh kinh tế, sử dụng vốn đầu tư vào phân bón, ứ đọng vốn khi áp dụng cách bón cải tạo, không nên bón nhiều lân một lúc để cải tạo các loại đất này, vì nếu có bón nhiều lân ở dạng dễ tiêu, lân dễ tiêu cũng sẽ bị chuyển thành dạng khó tiêu cây không sử dụng được. Ý đồ cải tạo sẽ khó có thể thực hiện được. Các loại đất của nước ta, rất đáng tiếc phần lớn có khả năng hấp phụ lớn và giữ rất chặt lân, không nên áp dụng biện pháp bón cải tạo mà nên bón hàng năm. Phần không sử dụng hết sẽ nâng dần độ phì của đất.

Nên bón nhiều lân để cải tạo độ phì về lân của đất hay chỉ nên bón vừa phải từng vụ, điều đó phụ thuộc vào tính chất đất có khả năng hấp phụ và giữ chặt lân mạnh hay yếu. Không nên dùng lượng lân cao để cải tạo độ phì về lân của đất ở các vùng đất sét giàu hữu cơ, chua và lượng sắt nhôm hòa tan cao.

11. Khác với đạm, bón lân nếu vượt quá mức cây cần dùng vẫn không làm giảm năng suất và phẩm chất nông sản đến mức nhận thấy rõ ràng.

Nếu vẽ đường cong tương quan giữa năng suất và lượng bón lân ta bón thường không tìm thấy đỉnh tối đa. Như vậy không nhất thiết phải quá thận trọng hạn chế lượng bón lân. Thường nên bón quá mức cần dùng một ít để tránh vì thiếu lân mà phân đạm không phát huy hết hiệu quả.

12. Những kết quả nghiên cứu ở vùng trồng lúa năng suấ cao, ở vùng trồng cam cho thấy rằng sau nhiều năm bón phân lân dễ tiêu (supe lân, DAP) một số vi lượng như kẽm, vi lượng đồng bị chuyển thành dạng cây không sử dụng được.

Hiện tượng thiếu Zn ở một số vùng trồng lúa Philipin, trên cây lanh ở nước Pháp và cũng bắt đầu xuất hiện ở vài nơi ở nước ta là ví dụ. Quan sát của Bingham trên cây cam cho thấy lượng đồng giảm xuống đến mức gây bệnh thiếu đồng do bón lân cao trong nhiều năm là một ví dụ khác. Người ta cũng quan sát thấy khi bón lân cho cây trồng nhu cầu Bo và Molybden cao lên. Nhiều nhà sản xuất phân bón vì vậy đã cho thêm vi lượng vào trong phân lân. Trên thương trường đã có xuất hiện các loại phân lân có Bo, có Mo, Zn, Cu, Mn.. để nông dân có thể chọn lựa khi cần thiết. Nên có các loại phân lân có chứa vi lượng.

13. Phân lân nên chú ý sử dụng để bón lót vì hai lý do:

– Lân rất cần cho sự phát triển của rễ và sự phát triển mầm cây ở giai đoạn cây non.

– Phân lân sau khi bón vào đất cho dù ở dạng hòa tan hay không hòa tan đều ít di chuyển, ít bị rửa trôi và mất đi. Cho nên nếu không phải là tất cả thì cũng là phần lớn lượng lân nên dùng bón lót. Mặc dầu lân rất cần cho sự hình thành sản phẩm thu hoạch, hạt và củ và ảnh hưởng đến phẩm chất sản phẩm thu hoạch nhưng khó có cách đưa lân tiếp cận đến rễ non vào đúng các giai đoạn cây cần bằng cách bón thúc. Lân khuếch tán chậm và không xa. Nếu cuốc xới để đưa lân vào tiếp cận với rễ sẽ làm đứt rễ rụng hoa quả. Để giải quyết nhu cầu lân vào các thời kì này, cách thường dùng là phun lân lên lá cây cùng với các chất vi lượng và điều hòa sinh trưởng. Một số nhà sản xuất đang chú ý sản xuất phân không bị hấp phụ như photphat và các pyrophotphat, metaphotphat dùng bón thúc. Ý định này vẫn còn đang ở giai đoạn nghiên cứu.

Lân bón lót, trừ ruộng lúa và các cây trồng không theo hàng, bón cho các cây trồng khác, nên bón cùng với hạt giống theo hàng hoặc theo hốc cây. Làm như vậy rễ cây có thể tiếp xúc với phân, lấy phân được dễ dàng.

Đối với cây lâu năm nên bón phân lân đến tận vùng rễ non phát triển vào cuối vụ đông.

14. Nguyên nhân của hiện tượng chuyển lân thành dạng khó hòa tan cây khó sử dụng là do phân tiếp xúc với keo đất và các chất hóa học trong dung dịch đất.

Hiện tượng này rất mạnh ở đất quá kiềm hoặc quá chua giàu sét, giàu hữu cơ, nhiều sắt nhôm hòa tan và ít hơn ở đất ít chua, trung tính hoặc trên đất cát nhẹ. Trên các loại đất có khả năng hấp phụ và giữ chặt lân mạnh, làm cho phân ít tiếp xúc với đất bằng cách viên thành viên trộn lẫn với phân chuồng, bón theo hàng theo hốc có thể làm tăng hiệu quả phân lân.

Nên sản xuất phân lân viên cho cây trồng cạn và cây lâu năm.

15. Bón thúc lân hay không phụ thuộc vào cây và đất.

Những loại đất mà quá trình chuyển lân thành dạng khó hòa tan mạnh có nhu cầu bón thúc lân. Canh tác trên đất phèn nếu để cho mất nước khô ruộng, phèn xì lên, sắt nhôm chuyển lân thành dạng khó hòa tan. Sau khi dùng nước rửa và ém phèn cần bón thúc lân cho lúa, lúa mới hồi phục nhanh được. Các ruộng lúa đất nặng, người cấy lúa nhiều khi không chú ý đến bùn quá loãng khi cấy, cây lúa bị cấy quá sâu, rễ thối, lúa vàng đứng cây không đẻ nhánh được. Chỉ sau khi rễ ở các mắt trên phát triển lúa mới bắt đầu hồi phục. Hiện tượng này gọi là nghẹt rễ, ngộ độc H 2 S. Khi gặp hiện tượng này cũng cần bón thúc lân để cho lúa hồi phục nhanh hệ rễ, sau đó bón tiếp phân đạm cho lúa chóng phát triển. Một số cây hoa màu như ngô, đậu đỗ bón thúc lân vào các thời kì vươn cao nếu đất xấu và xuất hiện dấu hiệu thiếu lân đều làm tăng năng suất. Các loại cây có thời gian sinh trưởng dài như mía, sắn bón thúc lân vào các đợt làm cỏ, vun cây về sau đều có hiệu lực.

16. Phân lân bón cho cây lâu năm nên bón vào đầu mùa đông.

Vào mùa đông cây lâu năm thường rụng lá và ngừng phát triển. Trong thời kỳ này cây phát triển mạnh hệ rễ. Bón phân lân sớm vào đầu mùa đông có hai mặt lợi: Làm cho hệ rễ phát triển mạnh giúp cho cây tìm được nhiều nước hơn trong mùa đông khô hanh, tạo cho cây phát triển mạnh vào mùa xuân và giúp cho cây trồng chống rét vào mùa đông.

Phân lân bón cho cây lâu năm thường được trộn với phân hữu cơ và được bón vào các hố đào quanh cây chiếu thẳng từ tán cây xuống đất.

Sự di chuyển yếu trong đất làm cho các đợt bón phân trong các năm sau khó đưa phân đến vùng phát triển của hệ. Các nghiên cứu để có những loại phân lân dễ di chuyển chưa có kết quả như ý. Nhiều nhà nghiên cứu đề xuất phương pháp dùng phân lỏng tiêm vào đất bằng các loại bơm áp lực cao đến nay vẫn còn nhiều khó khăn về kỹ thuật chưa vượt qua. Vì vậy để đảm bảo cung cấp lớn cho các năm sau nên khuyến cáo nông dân bón nhiều phân lân vào hố trồng cây ban đầu.

Nguồn: camnangcaytrong.com

Phân Lân Là Gì? Những Loại Phân Lân Phổ Biến Hiện Nay

Khái niệm về phân lân

Phân lân là dạng phân bón vô cơ có chứa thành phần dinh dưỡng chính là photpho. Được biết lân là một trong những nhân tố thúc đẩy mạnh các quá trình sinh tưởng, phát triển của cây. Thiếu lân hay thừa lân đều để lại những biểu hiện không tốt nhất định.

Một số loại phân lân phổ biến Nhóm lân tự nhiên

Là loại lân có nguồn gốc hoàn toàn từ thiên nhiên mà không qua chế biến nào cả. Tồn tại chủ yếu là các loại phân photphat như Apatit, Photphorit. Apatit chứa khoảng 30 – 40% hàm lượng lân và được cho là quặng chứa lân tự nhiên cao nhất. Apatit thường dùng để bón cho các loại đất nghèo lân ở mức cao. Photphorit thì chứa ít hàm lượng lân hơn, chỉ khoảng 8 – 12%. Loại này có dạng bột, khá khô, thích hợp cho đất phèn, chua, đặc biệt là cây họ Đậu.

Nhóm lân chế biến

Hiện nay nhiều người lựa chọn loại lân công nghiệp là vì có hàm lượng lân cao hơn so với lân tự nhiên, có thể theo dõi tình hình cây trồng mà sử dụng thích hợp. Phân lân chế biến được chia làm hai loại phổ biến là lân nung chảy và supephotphat.

Phân lân nung chảy

Thành phần chính là Ca3(PO4)2, được sản xuất trong điều kiện nung quặng photphat ở nhiệt độ cao. Lân nung chảy thường có màu sắc trắng xám, xanh xám. Loại lân này thích hợp bón cho đất chua vì có tính kiềm sẽ trung hòa được môi trường đất. Vùng đất phèn ở đồng bằng sông Cửu Long, đất đồi núi miền Trung hay đất bạc màu cũng sử dụng được. Hiệu quả phân lân nung chảy tỉ lệ thuận với đất càng chua, càng phèn.

Supe lân có công thức hóa học là Ca(H2PO4)2, dễ tan trong môi trường đất, nước nên rất được nhà nông tin dùng. Có hai loại nhỏ nữa là supe lân đơn và supe lân kép, khác nhau chính ở hàm lượng lân cao thấp. Ngược lại với lân nung chảy thì supe lân không thích hợp để bón đất chua do có tính axit.

Vai trò của phân lân

Cung cấp đủ lân cho cây trồng sẽ thúc đẩy quá trình ra rễ, đẻ nhánh, phân cành ở cây. Tham gia vào quá trình quang hợp, hô hấp, các quá trình sinh hóa, trao đổi năng lượng khác.

Yếu tố lân là nhân tố có quyết định đến sự ra hoa, kết trái và quá trình chín quả, cho năng suất cao. Tăng thêm khả năng chống chịu trước điều kiện môi trường bất lợi.

Bên cạnh đó bón lân còn giúp giảm thiểu tác hại của việc thừa đạm ảnh hưởng đến cây trồng. Cây sẽ có thể chịu được tính chua, tính kiềm của đất ở một mức thích hợp.

Ở một số cây điển hình như cây táo thì lân sẽ có ảnh hưởng đến số lượng hoa trên cây. Với cây lạc thuộc họ Đậu thì cung cấp đủ lân sẽ tạo điều kiện phát triển cho vi khuẩn sống cộng sinh ở nốt sần rễ cây, giúp cây hấp thụ được nguồn dinh dưỡng cần thiết.

Một số biểu hiện khi thấy thiếu, thừa lân Khi thiếu lân

Thiếu lân sẽ làm chậm quá trình ra hoa ở cây, tỷ lệ thụ quả cũng ít hơn và quả thường không có chất lượng tốt. Các quá trình tổng hợp chất dinh dưỡng bị kém hiệu suất, khó tổng hợp được protein cần thiết cho cây.

Khi thừa lân

Dấu hiệu thừa lân thường ít biểu hiện ra bên ngoài. Một số triệu chứng đi kèm thường là quả chín sớm hơn, gây ức chế sinh trưởng. Vì thế khi cung cấp phân lân cho cây trồng cần chú ý sử dụng với lượng vừa phải. Kết hợp thêm với các loại phân hữu cơ khác để tránh được hiện tượng thừa lân không mong muốn.

Theo tính chất của đất: đất có tính chua nên sử dụng phân lân nung chảy. Đất trung tính, đất có tính kiềm thì nên dùng supephotphat.

Theo đặc điểm cây trồng: khi cây còn non là giai đoạn cần lân nhất để giúp cho sự phát triển của bộ rễ. Giai đoạn đầu của cây cần được chăm sóc đặc biệt hơn.

Theo thành phần cơ giới đất: đất thịt, thịt nặng khi bón lân thường bị giữ lại nên phải bón theo hàng và loại lân cây nhanh hấp thụ.

Bên cạnh đó, nhà nông cần phải theo dõi quan sát tình hình cây trồng của mình để có những biện pháp xử lý kịp thời. Hạn chế sử dụng phân thuốc hóa học và thay vào đó là phân vi sinh, phân hữu cơ được khuyến khích nhiều hơn. Phân bón Huy Long hiện có cung cấp loại phân trùn quế, chế phẩm BIMA có thể sử dụng kết hợp với phân lân bón cho cây trồng.

Hy vọng những thông tin ở trên sẽ giúp các bạn có thêm kiến thức về phân bón lân để áp dụng vào canh tác nông nghiệp trên cây trồng của mình. Liên hệ 0777.232.718 – 0255.652.7676 hoặc Fanpage để được hỗ trợ.

Cẩm Nang Phân Lân: Kỹ Thuật Sử Sụng Phân Lân

Ngày đăng : 04/06/2023 – 8:36 AM

1. Chọn dạng phân bón Để phát huy hiệu quả của phân lân đối với cây trồng, trước khi sử dụng phân lân chúng ta cần lựa chọn những loại phân lân phù hợp dựa trên các cơ sở sau:

– Căn cứ vào pH đất: + Supe lân nên bón trên đất trung tính, khi bón supe lân trên đất chua, trước đó phải bón vôi để trung hòa độ chua đến pH=6,5 thì phân này mới phát huy hết hiệu quả.

+ Phân lân thiên nhiên, phân lân nung chảy bón cho đất chua, đất bạc màu, đất trũng, đất lầy thụt.

– Căn cứ các yếu tố dinh dưỡng đi kèm trong phân lân: Cũng có vai trò quan trọng để nâng cao hiệu quả của phân bón. Nhiều trường hợp dạng phân bón này tỏ ra tốt hơn dạng phân bón kia là do yếu tố dinh dưỡng đi kèm.

+ Supe lân do có chứa S nên thể hiện tính ưu việt với các cây có nhu cầu S cao.

+ Phân lân nung chảy nhờ có Mg, SiO2, nên thể hiện tính ưu việt rất rõ trên đất thoái hóa rửa trôi mạnh hay khi bón cho các cây trồng có nhu cầu về các chất này cao.

Tuy nhiên, sự phối hợp nhiều loại phân lân trong sử dụng thường cho hiệu quả hơn. Do mỗi dạng phân lân đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định sự phối hợp chúng trong sử dụng sẽ phát huy được những ưu điểm, khắc phục được nhược điểm của từng dạng phân, tạo nên hiệu quả sử dụng phân bón chung tốt hơn.

2. Vai trò của dạm đối với hiệu quả của việc bón lân Phân lân chỉ phát huy tác dụng khi đất có đủ đạm hay được bón cân đối với phân đạm theo yêu cầu của cây. Trong trồng trọt nếu chưa có khả năng tăng được lượng phân N bón thì chưa tăng lượng phân bón vì sẽ không đem lại hiệu quả.

3. Thời kỳ bón phân lân – Đối với hầu hết tất cả các loại cây trồng ở thời kỳ đầu sinh trưởng (thời kỳ cây con) rất cần lân để ra rễ và nếu thiếu lân ở thời kỳ này sẽ dẫn đến tình trạng khủng hoảng lân. Hơn nữa lân được tích lũy vào trong cây ở giai đoạn sinh trưởng trước có thể chuyển hóa để tái sử dụng cho giai đoạn sau khi trong đất thiếu.

– Vì vậy, cần chú ý bón phân lân đủ cho cây trồng ngay từ đầu đối với tất cả các loại cây trồng. Bất cứ loại phân nào, cũng lấy bón lót là chính.

– Việc bón thúc phân lân có thể cần thiết khi cây trồng có biểu hiện thiếu lân, hay vì lý do nào đó nào đó chưa bón lót toàn bộ lượng phân lân cần bón. Riêng trong sản xuất hạt giống, rất cần bón thúc phân lân trước thời kỳ hình thành hạt nhằm làm tăng tỷ lệ lân trong hạt giống, làm tăng sức nảy mầm và các chất lượng khác cho hạt giống. Việc bón thúc phân lân chỉ đạt hiệu quả khi bón bằng phân supe lân.

4. Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phân lân Để nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng phân lân khi sử dụng chúng ta cần chú ý những điểm sau:

– Bón phân lân vào thời kỳ cây có nhu cầu lân cao (vườn ươm, ruộng mạ, lúc mới trồng cây trồng).

– Bón phân lân càng gần rễ cây càng tốt, bón cho cây trồng cạn thường bón theo hàng theo hốc.

– Bón phân lân kết hợp với phân chuồng, theo tỷ lệ so với phân chuồng, 2% đối với supe lân, 3 – 5% đối với photphorit.

– Phối hợp supe lân các loại lân khác trong sử dụng.

– Bón phân lân theo đất: Đất chua nghèo lân dùng phân lân thiên nhiên; đất bạc màu, đất nhẹ nghèo Mg dùng phân lân nung chảy. Đất kiềm, trung tính dùng phân supe lân.

– Bón phân lân theo cây: Ưu tiên bón phân lân cho các cây có nhu cầu lân cao, cây trồng cạn đặc biệt là các cây ngắn ngày nên bón supe lân, lúa nên bón phân lân nung chảy hay phân lân thiên nhiên, cây bộ đậu và phân xanh nên dùng phân lân thiên nhiên.

– Chỉ supe lân mới có thể được dùng để bón thúc còn các loại phân lân khác chỉ dùng bón lót.

5. Có thể bón phân lân cải tạo và bón lân duy trì – Bón phân cải tạo: Là bón lượng lân lớn hơn nhiều so với nhu cầu của cây nhằm làm tăng hàm lượng lân có trong đất đến một mức thỏa đáng tạo khả năng để đất cung cấp lân tốt cho cây và thường làm đối với đất nghèo lân.

– Bón phân duy trì: Là bón lượng phân vừa đủ bù đắp lượng phân mà cây trồng lấy đi hằng năm, để ổn định lượng lân có trong đất.

– Trong thực tế người ta có thể bón tập trung lượng phân lân lớn của một số vụ cây trồng vào một lần bón cho cây trồng nào có nhu cầu lân cao nhất trong hệ thống luân canh để giảm chi phí vận chuyển và bón phân (tiện cho việc cơ giới hóa)(bón cải tạo).

– Tuy nhiên bón một lượng phân lân cải tạo lớn có thể dẫn đến việc cản trở hút các nguyên tố vi lượng đặc biệt là Zn ở cây (do bị cố định). Ngoài ra khi trong đất có nhiều sắt, nhôm ở dạng hòa tan và khoáng sét nếu bón lượng phân lân quá lớn vào đất chúng dễ chuyển thành dạng khó tiêu hiệu lực còn lại rất thấp gây lãng phí, ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của cây. Vì vậy cần bón phân đúng lúc và liên tục để tăng hàm lượng lân dễ tiêu trong đất khác.

Cập nhật thông tin chi tiết về Bài 2: Phân Lân Và Sự Phân Loại Lân (Tiếp Theo Và Hết) trên website Duhocaustralia.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!